Phần VI:
151. Loài người thì nữ đẹp hơn nam, loài cầm thì trống đẹp hơn mái, loài thú thì đực cái chẳng phân.
人 則 女 美 于 男, 禽 則 雄 華 于 雌, 獸 則 牝 牡 無 分 者 也。
Nhân tắc nữ mỹ vu nam, cầm tắc hùng hoa vu thư, thú tắc tẫn mẫu vô phân dã.
152. Thiên hạ không có sách thì thôi, đã có tất phải đọc; không có rượu thì thôi, đã có tất phải uống; không có danh sơn thì thôi, đã có tất phải tới chơi; không có hoa có trăng thì thôi, đã có tất phải thưởng ngoạn; không có tài tử giai nhân thì thôi, đã có tất phải mến yêu luyến tiếc.
天 下 無 書 則 已, 有 則 必 當 讀; 無 酒 則 已, 有 則 必 當 飲; 無 名 山 則 已, 有 則 必 當 遊; 無 花 月 則 已, 有 則 必 當 賞 玩; 無 才 子 佳 人 則 已, 有 則 必 當 愛 慕 憐 惜。
Thiên hạ vô thư tắc dĩ, hữu tắc tất đương độc; vô tửu tắc dĩ, hữu tắc tất đương ẩm; vô danh sơn tắc dĩ, hữu tắc tất đương du; vô hoa nguyệt tắc dĩ, hữu tắc tất đương thưởng ngoạn; vô tài tử giai nhân tắc dĩ, hữu tắc tất đương ái mộ lân tích.
153. Trùng mùa thu, chim mùa xuân còn biết hòa thanh uốn lưỡi, cất những tiếng hay; bọn ta trau chuốt bút lông, sao lại cam chịu như quạ kêu trâu rống?
秋 蟲 春 鳥, 尚 能 調 聲 弄 舌,時 吐 好 音。 我 輩 搦 管 拈 毫,豈 可 甘 作 鴉 鳴 牛 喘?
Thu trùng xuân điểu, thượng năng điều thanh lộng thiệt, thời thổ hảo âm. Ngã bối nạch quản niêm hào, khởi khả cam tác nha minh ngưu suyễn!
154. “Công việc trong nhà, nhờ vào trăm điều nhẫn mà sống chung”, ngàn năm đều cho đó là câu nói hay. Đâu hay rằng phải nhẫn đến một trăm điều thì gia đình đó là nơi quá đỗi khắc khe, cách biệt, không dễ gì mà kiếm được người giúp việc.
吾 家 公 藝,恃 百 忍 以 同 居,千 古 傳 為 美 談。殊 不 知 忍 而 至 于 百,則 其 家 庭 乖 戾 睽 隔 之 處,正 未 易 更 僕 數 也。
Ngô gia công nghệ, thị bách nhẫn dĩ đồng cư, thiên cổ truyền vi mỹ đàm. Thù bất tri nhẫn nhi chí vu bách, tắc kỳ gia đình quai lệ khuê cách chi xứ, chánh vị dị cánh bộc số dã.
155. Chín đời sống chung một nhà, thực là thịnh sự. Nhưng còn việc cắt thịt đùi để nuôi cha mẹ hoặc làm lều tranh ở bên mộ cha mẹ để trả hiếu thì chỉ nên coi là việc khó làm chứ không phải là phép tắc, vì nó trái với đạo trung dung.
九 世 同 居, 誠 為 盛 事, 然 止 當 與 割 股 廬 墓 者, 作 一 例 看, 可 以 為 難 矣, 不 可 以 為 法 也, 以 其 非 中 庸 之 道 也。
Cửu thế đồng cư, thành vi thịnh sự, nhiên chỉ đương dữ cát cổ lư mộ giả, tác nhất lệ khan, khả dĩ vi nan hỹ, bất khả dĩ vi pháp dã, dĩ kỳ phi trung dung chi đạo dã.
156. Phép làm văn : ý mà gãy gọn, nên dùng lời đơn giản để miêu tả; lý mà gãy gọn nên dùng ngọn bút gãy gọn để nối liền; đầu đề mà cũ, nên đưa vào ý tưởng tân kỳ; đầu đề mà tầm thường, nên dùng lập luận quan hệ để đào sâu thêm. Còn đến chỗ bế tắc thì giản ra để thêm dài, chỗ rườm rà thì rút gọn để cho ngắn, chỗ quê mùa thì dùng văn vẻ để thêm thanh nhã, chỗ ồn ào thì dùng yên lặng để thu nhiếp, đó đều là phép gia giảm thêm bớt.
作 文 之 法 : 意 之 曲 折 者, 宜 寫 之 以 顯 淺 之 詞 ; 理 之 顯 淺 者, 宜 運 之 以 曲 折 之 筆 ; 題 之 熟 者, 參 之 以 新 奇 之 想 ; 題 之 庸 者, 深 之 以 關 繫 之 論。 至 于 窘 者 舒 之 使 長, 縟 者 刪 之 使 簡, 俚 者 文 之 使 雅, 鬧 者 攝 之 使 靜, 皆 所 謂 裁 制 也。
Tác văn chi pháp : ý chi khúc chiết giả, nghi tả chi dĩ hiển thiển chi từ, lý chi hiển thiển giả, nghi vận chi dĩ khúc chiết chi bút, đề chi thục giả, tham chi dĩ tân kỳ chi tưởng, đề chi dung giả, thâm chi dĩ quan hệ chi luận. Chí vu quẫn giả thư chi sử trường, nhục giả san chi sử giản, lý giả văn chi sử nhã, náo giả nhiếp chi sử tĩnh, giai sở vị tài chế dã.
157. Măng tre là vậy quý trong loài rau, trái vải là vật quý trong loài trái cây, cua là vật quý trong loài thủy tộc, rượu là vật quý trong chuyện ẩm thực, trăng là vậy quý trong thiên văn, Tây Hồ là vật quý trong sơn thủy, từ khúc là vật quý trong văn chương.
筍 為 蔬 中 尤 物, 荔 枝 為 果 中 尤 物, 蟹 為 水 族 中 尤 物, 酒 為 飲 食 中 尤 物, 月 為 天 文 中 尤 物, 西 湖 為 山 水 中 尤 物, 詞 曲 為 文 字 中 尤 物。
Duẩn vi sơ trung vưu vật, lệ chi vi quả trung vưu vật, giải vi thủy tộc trung vưu vật, tửu vi ẩm thực trung vưu vật, nguyệt vi thiên văn trung vưu vật, Tây Hồ vi sơn thủy trung vưu vật, từ khúc vi văn tự trung vưu vật
158. Mua được một chậu hoa đẹp, còn biết nâng niu thương tiếc, huống gì là cánh hoa biết nói!
買 得 一 本 好 花, 猶 且 愛 護 而 憐 惜 之, 矧 其 為 解 語 花 乎 !
Mãi đắc nhất bản hảo hoa, do thư ái lân nhi hộ tích chi, thẩn kỳ vi giải ngữ hoa hồ!
159. Nhìn chân tay diện mạo một người đủ biết người đó nhã hay tục, giao du ra sao.
觀 手 中 便 面, 足 以 知 其 人 之 雅 俗, 足 以 識 其 人 之 交 遊。
Quán thủ trung tiện diện, túc dĩ tri kỳ nhân chi nhã tục, túc dĩ thức kỳ nhân chi giao du.
160. Nước là nơi những thứ nhơ bẩn nhất tập trung về, lửa là chỗ những thứ nhơ bẩn nhất không đến được, nhưng nếu biến cái nhơ bẩn thành cái thanh khiết nhất thì nước và lửa cũng như nhau.
水 為 至 污 之 所 會 歸, 火 為 至 污 之 所 不 到, 若 變 不 潔 為 至 潔, 則 水 火 皆 然。
Thủy vi chí ô chi sở hội quy, hỏa vi chí ô chi sở bất đáo. Nhược biến bất khiết nhi vị chí khiết, tắc thủy hỏa giai nhiên.
161. Có những gương mặt xấu mà dễ coi, có những gương mặt dù không xấu mà vẫn khó coi; văn chương có khi không thông suốt mà vẫn đáng yêu, có khi dù thông suốt mà đọc rất chán. Điều đó không dễ gì nói cho hạng nông cạn hiểu được.
貌 有 醜 而 可 觀 者, 有 雖 不 醜 而 不 足 觀 者 ; 文 有 不 通 而 可 愛 者, 有 雖 通 而 極 可 厭 者。 此 未 易 與 淺 人 道 也。
Mạo hữu xú nhi khả quan giả, hữu tuy bất xú nhi bất túc quan giả; văn hữu bất thông nhi khả ái giả, hữu tuy thông nhi cực khả yếm giả. Thử vị dị dữ tiện nhân đạo dã.
162. Du ngọan sơn thủy cũng phải có duyên. Nếu như cơ duyên chưa đến thì dù có cách vài chục dặm cùng không rỗi mà đến được.
遊 玩 山 水 亦 復 有 緣, 苟 機 緣 未 至, 則 雖 近 在 數 十 里 之 內, 亦 無 暇 到 也。
Du ngoạn sơn thủy, diệc phục hữu duyên. Cẩu cơ duyên vị chí, tắc tuy cận tại sổ thập lý chi nội, diệc vô hạ đáo dã.
163. Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, người xưa cho là hiền. Nghèo mà không kiêu, giàu mà không nịnh, người nay cho là nhỏ. Chừng đó cũng đủ để biết thói đời suy đồi.
貧 而 無 諂, 富 而 無 驕, 古 人 之 所 賢 也 ; 貧 而 無 驕, 富 而 無 諂, 今 人 之 所 少 也。 足 以 知 世 風 之 降 矣。
Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, cổ nhân chi sở hiền dã; bần nhi vô kiêu, phú nhi vô siểm, kim nhân chi sở thiếu dã. Túc dĩ tri thế phong chi giáng hỹ.
164. Người xưa muốn đọc sách mười năm, du ngoạn sơn thủy mười năm, kiểm điểm kinh nghiệm mười năm. Tôi cho rằng kiểm điểm kinh nghiệm không cần phải tới mười năm, chỉ cần hai hay ba năm là đủ. Còn thời gian đọc sách hay du sơn ngoạn thủy cần phải tăng lên, e rằng cũng còn chưa thỏa mãn tâm nguyện. Có lẽ phải nó như Hoàng Cửu Yên tiền bối :”Đời người ắt phải tới ba trăm năm mới đủ chăng?”.
昔 人 欲 以 十 年 讀 書, 十 年 遊 山, 十 年 檢 藏。 予 謂 檢 藏 儘 可 不 必 十 年, 只 二 、 三 載 足 矣, 若 讀 書 與 遊 山, 雖 或 相 倍 蓰, 恐 亦 不 足 以 償 所 願 也, 必 也 如 黃 九 煙 前 輩 之 所 云 : 「 人 生 必 三 百 歲 而 後 可 乎 ! 」
Tích nhân dục dĩ thập niên độc thư, thập niên du sơn, thập niên kiểm tàng. Dữ vị kiểm tàng tận khả bất tất thập niên, chỉ nhị tam tải túc hỹ. Nhược độc thư dữ du sơn, tuy hoặc tương bội tỷ, khủng diệc bất túc dĩ thường sở nguyện dã. Tất dã như Hoàng Cửu Yên tiền bối chi sở vân ”Nhân sinh tất tam bách tuế”, nhi hậu khả hồ!
165. Thà bị kẻ tiểu nhân mắng chửi, chứ không để người quân tử xem khinh; thà để quan giám khảo mù đánh rớt, chứ không để các bậc danh túc không biết đến mình.
寧 為 小 人 之 所 罵, 毋 為 君 子 之 所 鄙 ; 寧 為 盲 主 司 之 所 擯 棄, 毋 為 諸 名 宿 所 不 知。
186. Bóng trong gương và dưới nước là bóng nhận, bóng dưới nắng và trước đèn là bóng cho. Bóng trăng trên trời là bóng cho, còn bóng trăng dưới đất là bóng nhận.
鏡 與 水 之 影, 所 受 者 也 ; 日 與 燈 之 影, 所 施 者 也。 月 之 有 影, 則 在 天 者 為 受, 而 在 地 者 為 施 也。
Kính dữ thủy chi ảnh, sở thụ giả dã, nhật dữ đăng chi ảnh, sở thí giả dã, nguyệt chi hữu ảnh, tắc tại thiên giả vi thụ nhi tại địa giả vi thí dã.
187. Nước có bốn thứ tiếng : có tiếng thác đổ, có tiếng suối reo, có tiếng ghềnh chảy, có tiếng ngòi lạch róc rách; gió có ba thứ tiếng : có tiếng lao xao thổi ngọn thông như sóng dậy, có tiếng xào xạc trong cây cỏ mùa thu, có tiếng thổi sóng vỗ ì ầm; mưa có hai thứ tiếng : có tiếng mưa rơi trên lá ngô đồng, có tiếng rơi trong thùng tre hứng dưới mái hiên.
水 之 為 聲, 有 四 : 有 瀑 布 聲, 有 流 泉 聲, 有 灘 聲, 有 溝 澮 聲。 風 之 為 聲, 有 三 : 有 松 濤 聲, 有 秋 葉 聲, 有 波 浪 聲。 雨 之 為 聲, 有 二 : 有 梧 葉 荷 葉 上 聲, 有 承 簷 溜 竹 筩 中 聲。
Thủy chi vi thanh hữu tứ : hữu bộc bố thanh, hữu lưu tuyền thanh, hữu than thanh, hữu câu hội thanh; phong chi vi thanh hữu tam : hữu tùng đào thanh, hữu thu thảo thanh, hữu ba lãng thanh; vũ chi vi thanh hữu nhị : hữu ngô tiêu hạ diệp thượng thanh, hữu thừa diêm lưu đồng trung thanh.
188. Văn nhân thường chê bai khinh rẻ bọn nhà giàu, nhưng đối với thơ văn hay thì lại dùng toàn vàng ngọc, châu báu, gấm vóc để ca ngợi. Vì sao vậy?
文 人 每 好 鄙 薄 富 人, 然 於 詩 文 之 佳 者, 又 往 往 以 金 玉 、 珠 璣 、 錦 繡 譽 之, 則 又 何 也 ?
Văn nhân mỗi háo bỉ bạc phú nhân, nhiên ư thi văn chi giai giả, hựu vãng vãng dĩ kim ngọc châu cơ cẩm tú dự chi, tắc hựu hà dã?
189. Có thể nhàn nhã về chuyện người đời bận rộn thì mới có thể bận rộn về chuyện người đời nhàn nhã.
能 閒 世 人 之 所 忙 者, 方 能 忙 世 人 之 所 閒。
Năng nhàn thế nhân chi sở mang giả, phương năng mang thế nhân chi sở nhàn.
190. Đọc kinh trước rồi đọc sử sau thì bàn luận mới không sai với ý thánh hiền, đọc sử trước rồi đọc kinh sau thì thấy sách vở chỉ toàn là chương cú.
先 讀 經, 後 讀 史, 則 論 事 不 謬 於 聖 賢 ; 既 讀 史, 復 讀 經, 則 觀 書 不 徒 為 章 句。
Tiên độc kinh, hậu độc sử, tác luận sự bất mậu ư thánh hiền; ký độc sử, hậu độc kinh, tắc quan thư bất đồ vi chương cú.
191. Sống ở thành thị thì lấy tranh vẽ làm sơn thủy, bồn chậu làm vườn cây, lấy sách vở làm bè bạn.
居 城 市 中, 當 以 畫 幅 當 山 水, 以 盆 景 當 苑 囿, 以 書 籍 當 朋 友。
Cư thành thị trung, đương dĩ họa phú đương sơn thủy, dĩ bồn cảnh đương uyển hựu, dĩ thư tịch đương hữu bằng.
192. Sống ở hương thôn cần phải có bạn hiền mới là hay. Nếu là nông dân hay tiều phu thì chỉ biết phân loại ngũ cốc và đoán thời tiết gió mưa, không khỏi mau chán; cho nên nếu trong bạn bè có người biết làm thơ là quý nhất, kế đến là bạn biết nói chuyện, sau đó là bạn biết ca hát, sau cùng là bạn biết uống rượu.
鄉 居 須 得 良 朋 始 佳。 若 田 夫 樵 子, 僅 能 辨 五 穀 而 測 晴 雨, 久 且 數, 未 免 生 厭 矣。 而 友 之 中, 又 當 以 能 詩 為 第 一, 能 談 次 之, 能 畫 次 之, 能 歌 又 次 之, 解 觴 政 者 又 次 之。
Lân cư tu đắc lương bằng thủy giai. Nhược điền phù tiều tử, cận năng biện ngũ cốc nhi trắc tình vũ, cửu thả số, vị miễn sinh yếm hỹ. Nhi hữu chi trung, hựu đương dĩ năng thi vi đệ nhất, năng đàm thứ chi, năng họa thứ chi, năng ca hựu thứ chi, giải trường chính giả hựu thứ chi.
193. Ngọc lan là Bá Di trong loài hoa, hoa quỳ là Y Doãn(10) trong loài hoa, hoa sen là Liễu Hạ Huệ(11) trong loài hoa. Hạc là Bá Di trong loài chim, gà là Y Doãn trong loài chim, chim oanh là Liễu Hạ Huệ trong loài chim.
玉 蘭, 花 中 之 伯 夷 也 ; 葵, 花 中 之 伊 尹 也 ; 蓮, 花 中 之 柳 下 惠 也。 鶴, 鳥 中 之 伯 夷 也 ; 雞, 鳥 中 之 伊 尹 也 ; 鶯, 鳥 中 之 柳 下 惠 也。
Ngọc lan, hoa trung chi Bá Di dã. Quỳ, hoa trung chi Y Doãn dã. Liên, hoa trung Liễu Hạ Huệ dã. Hạc, điểu trung chi Bá Di dã. Kê, điểu trung chi Y Doãn dã. Oanh, điểu trung chi Liễu Hạ Huệ dã.
194. Không có tội nhưng lại mang tiếng ác, đó là con bọ bạc(12); có tội nhưng vẫn tránh được lời chê bai, đó là con nhện.
無 其 罪 而 虛 受 惡 名 者, 蠹 魚 也 ; 有 其 罪 而 恆 逃 清 議 者, 蜘 蛛 也。
Vô kỳ tội nhi khư thụ ố danh giả, đố ngư dã; hữu kỳ tội nhi hằng đào thanh nghị giả, tri thù dã.
195. Hôi nát mà biến thành thần kỳ đó là tương, đậu hủ; còn từ thần kỳ biến lại thành hôi nát ắt các vật này cũng vậy.
臭 腐 化 為 神 奇, 醬 也 、 腐 乳 也 、 金 汁 也 ; 至 神 奇 化 為 臭 腐, 則 是 物 皆 然。
Xú hủ hóa vi thần kỳ, tương dã, hủ nhũ dã, kim trấp dã; chí thần kỳ hóa vi xú hủ, tắc thị vật giai nhiên.
196. Màu đen hòa với mà trắng, màu đen làm hoen màu trắng, mà màu trắng không che nỗi màu đen; mùi thơm trộn lẫn với mùi thối, mùi thối lấn mùi thơm, mà mùi thơm không địch nỗi mùi thối; đó là cái xu thế của quân tử so với tiểu nhân vậy.
黑 與 白 交, 黑 能 污 白, 白 不 能 掩 黑 ; 香 與 臭 混, 臭 能 勝 香, 香 不 能 敵 臭 ; 此 君 子 小 人 相 攻 之 大 勢 也。
Hắc dữ bạch giao, hắc năng ô bạch, bạch bất năng yểm hắc; hương dữ xú hỗn, xú năng thắng hương, hương bất năng địch xú. Thử quân tử tiểu nhân tương công chi đại thế dã.
197. Một chữ”sỉ” (xấu hổ) có thể trị được người quân tử, một chữ”thống” (đau đớn) có thể trị được kẻ tiểu nhân.
「恥」之 一 字,所 以 治 君 子; 「痛」 之 一 字,所 以 治 小 人。
“Sỉ” chi nhất tự, sở dĩ trị quân tử, ”thống” chi nhất tự, sở dĩ trị tiểu nhân.
198. Gương không thể tự soi, cân không thể tự cân, kiếm không thể tự chém.
鏡 不 能 自 照, 衡 不 能 自 權, 劍 不 能 自 擊。
Kính bất năng tự chiếu, hành bất năng tự quyền, kiếm bất năng tự kích.
199. Người xưa: "Thơ tất phải cùng khốn rồi sau mới hay". Bởi cùng khốn thì có nhiều cảm khái, dễ tìm thấy được cái sở trường. Nếu là kẻ phú quý, đã không thể lo khổ than nghèo, lời đàm luận chẳng qua cũng chỉ nói đến trăng gió khói mây, thì thơ làm sao mà hay cho được? Muốn biến đổi thì có một cách là đi du ngoạn, thấy được núi sông phong thổ, sản vật nhân tình, những cảnh lửa binh tang tóc, hoặc cảnh hạn hán thiên tai, chẳng có gì là không thể gởi vào thơ. Đem nỗi sầu bi cùng khốn của người để hỗ trợ cho lời ta thán trong thơ của ta, thì thơ cũng không cần "phải cùng khốn rồi sau mới hay" vậy.
古 人 云 : 「 詩 必 窮 而 後 工。 」 蓋 窮 則 與 多 感 慨, 易 於 見 長 耳。 若 富 貴 中 人, 既 不 可 憂 貧 歎 賤, 所 談 者 不 過 風 雲 月 露 而 已, 詩 安 得 佳 ? 苟 思 所 變, 計 惟 有 出 遊 一 法。即 以 所 見 之 山 川 風 土 物 產 人 情, 或 當 瘡 痍 兵 燹 之 餘, 或 值 旱 潦 災 祲 之 後, 無 一 不 可 寓 之 詩 中。 借 他 人 之 窮 愁, 以 供 我 之 詠 歎, 則 詩 亦 不 必 待 窮 而 後 工 也。
Cổ nhân vân: "Thi tất cùng nhi hậu công". Cái cùng tắc ngữ đa cảm khái, dị ư kiến trường nhĩ. Nhược phú quý trung nhân, ký bất khả ưu bần thán tiện, sở đàm giả bất quá phong vân nguyệt lộ nhi dĩ, thi an đắc giai. Cẩu tư sở biến, kế duy hữu xuất du nhất pháp, tức dĩ sở kiến chi sơn xuyên phong thổ vật sản nhân tình, hoặc đương sang di binh tiển chi dư, hoặc trị hạn lạo tai tẩm chi hậu, vô nhất bất khả ngụ chi thi trung, tá tha nhân chi cùng sầu, dĩ cung ngã chi vịnh thán, tắc thi diệc bất tất đãi cùng nhi hậu công dã.
200. Do giới mà được định, do định mà được huệ(13), gượng gần được với tự nhiên; luyện tinh để hóa khí, luyện khí để hóa thần(14), thanh hư làm sao mà có cặn bã cho được?
由戒得定,由定得慧,勉強漸近自然, 鍊 精 化 氣, 鍊 氣 化 神, 清 虛 有 何 渣 滓 ?
Do giới đắc định, do định đắc huệ, miễn cưỡng tiệm cận tự nhiên, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, thanh hư hữu hà tra chỉ?
Chú thích:
(1) Cốt cách kiêu ngạo
(2) Tấm lòng kiêu ngạo
(3) Tức Bá Di Thúc Tề, hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Chu. Hai ông can Vũ Vương đừng đánh Trụ mà không được,nên sau Vũ Vương tiêu diệt được Trụ, lập nên nhà Chu, hai ông thề suốt đời không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi ở ẩn.
(4) Tức Quản Trọng và Yến Anh, hai vị tể tướng lỗi lạc thời Chiến Quốc, giúp nước Tề lập được nghiệp bá.
(5) Triều đại của vua Thuấn, một ông vua huyền thoại của Trung Quốc, được xem là thời thiên hạ thái bình.
(6) Thuật ngữ Phật giáo chỉ 4 loài tái sinh
óa sinh là loài do y vào nghiệp lực mà hóa sinh, như chư thần; Thai sinh là loài sinh ra từ bào thai, như con người, muông thú; Noãn sinh là loài sinh do ra từ trứng, như gia cầm, chim chóc; Thấp sinh là loài sinh ra từ những nơi ẩm thấp, như các loài vi sinh, phiêu sinh vật…
(7) Dụng cụ đo bóng mặt trời thời cổ để tính thời gian.
(8) Đại hội tài thí và pháp thí của Phật giáo, dành cho mọi tầng lớp chúng sinh, không phân biệt sang hèn, tăng tục, trí ngu (cứ 3 năm tổ chức một lần)
(9) Ba dòng tư tưởng chính trong lịch sử triết hoc Trung Quốc : Nho, Thích, Lão.
(10) Y Doãn (1648 TCN?-1549 TCN?), là vị tể tướng giỏi của nhà Thương; giúp vua Thành Thang phạt vua Kiệt nhà Hạ và lập nhà Thương.
11) Đồng thời với Khổng Tử, nối tiếng thanh khiết, được đời sau xưng là”Thánh chi thanh”
(12) Loại côn trùng cánh trắng như bạc thường ăn giấy trong sách.
(13) Giới luật, thiền định và trí huệ là ba pháp môn tu hành của đạo Phật, gọi là Tam học. Giữ giới luật thì tâm được định, và nhờ định mà phát sinh trí huệ.
(14) Tinh là chất dinh dưỡng hấp thụ từ tinh hoa thức ăn, khí là sức hoạt động của nội tạng, thần là phần linh hoạt biểu hiện sức sống. Quan hệ giữa tinh, khí, thần trong mỗi cơ thể là mấu chốt chủ yếu để duy trì sự sống. Sinh mạng con người bắt đầu từ tinh, sống được là nhờ khí, mà chủ sinh mạng lại là thần. Tinh, khí, thần là ba khái niệm cơ bản trong phép tu tiên của đạo gia, được gọi là Tam bảo.
@ Cop bệt từ Cổ Dã Tử.
151. Loài người thì nữ đẹp hơn nam, loài cầm thì trống đẹp hơn mái, loài thú thì đực cái chẳng phân.
人 則 女 美 于 男, 禽 則 雄 華 于 雌, 獸 則 牝 牡 無 分 者 也。
Nhân tắc nữ mỹ vu nam, cầm tắc hùng hoa vu thư, thú tắc tẫn mẫu vô phân dã.
152. Thiên hạ không có sách thì thôi, đã có tất phải đọc; không có rượu thì thôi, đã có tất phải uống; không có danh sơn thì thôi, đã có tất phải tới chơi; không có hoa có trăng thì thôi, đã có tất phải thưởng ngoạn; không có tài tử giai nhân thì thôi, đã có tất phải mến yêu luyến tiếc.
天 下 無 書 則 已, 有 則 必 當 讀; 無 酒 則 已, 有 則 必 當 飲; 無 名 山 則 已, 有 則 必 當 遊; 無 花 月 則 已, 有 則 必 當 賞 玩; 無 才 子 佳 人 則 已, 有 則 必 當 愛 慕 憐 惜。
Thiên hạ vô thư tắc dĩ, hữu tắc tất đương độc; vô tửu tắc dĩ, hữu tắc tất đương ẩm; vô danh sơn tắc dĩ, hữu tắc tất đương du; vô hoa nguyệt tắc dĩ, hữu tắc tất đương thưởng ngoạn; vô tài tử giai nhân tắc dĩ, hữu tắc tất đương ái mộ lân tích.
153. Trùng mùa thu, chim mùa xuân còn biết hòa thanh uốn lưỡi, cất những tiếng hay; bọn ta trau chuốt bút lông, sao lại cam chịu như quạ kêu trâu rống?
秋 蟲 春 鳥, 尚 能 調 聲 弄 舌,時 吐 好 音。 我 輩 搦 管 拈 毫,豈 可 甘 作 鴉 鳴 牛 喘?
Thu trùng xuân điểu, thượng năng điều thanh lộng thiệt, thời thổ hảo âm. Ngã bối nạch quản niêm hào, khởi khả cam tác nha minh ngưu suyễn!
154. “Công việc trong nhà, nhờ vào trăm điều nhẫn mà sống chung”, ngàn năm đều cho đó là câu nói hay. Đâu hay rằng phải nhẫn đến một trăm điều thì gia đình đó là nơi quá đỗi khắc khe, cách biệt, không dễ gì mà kiếm được người giúp việc.
吾 家 公 藝,恃 百 忍 以 同 居,千 古 傳 為 美 談。殊 不 知 忍 而 至 于 百,則 其 家 庭 乖 戾 睽 隔 之 處,正 未 易 更 僕 數 也。
Ngô gia công nghệ, thị bách nhẫn dĩ đồng cư, thiên cổ truyền vi mỹ đàm. Thù bất tri nhẫn nhi chí vu bách, tắc kỳ gia đình quai lệ khuê cách chi xứ, chánh vị dị cánh bộc số dã.
155. Chín đời sống chung một nhà, thực là thịnh sự. Nhưng còn việc cắt thịt đùi để nuôi cha mẹ hoặc làm lều tranh ở bên mộ cha mẹ để trả hiếu thì chỉ nên coi là việc khó làm chứ không phải là phép tắc, vì nó trái với đạo trung dung.
九 世 同 居, 誠 為 盛 事, 然 止 當 與 割 股 廬 墓 者, 作 一 例 看, 可 以 為 難 矣, 不 可 以 為 法 也, 以 其 非 中 庸 之 道 也。
Cửu thế đồng cư, thành vi thịnh sự, nhiên chỉ đương dữ cát cổ lư mộ giả, tác nhất lệ khan, khả dĩ vi nan hỹ, bất khả dĩ vi pháp dã, dĩ kỳ phi trung dung chi đạo dã.
156. Phép làm văn : ý mà gãy gọn, nên dùng lời đơn giản để miêu tả; lý mà gãy gọn nên dùng ngọn bút gãy gọn để nối liền; đầu đề mà cũ, nên đưa vào ý tưởng tân kỳ; đầu đề mà tầm thường, nên dùng lập luận quan hệ để đào sâu thêm. Còn đến chỗ bế tắc thì giản ra để thêm dài, chỗ rườm rà thì rút gọn để cho ngắn, chỗ quê mùa thì dùng văn vẻ để thêm thanh nhã, chỗ ồn ào thì dùng yên lặng để thu nhiếp, đó đều là phép gia giảm thêm bớt.
作 文 之 法 : 意 之 曲 折 者, 宜 寫 之 以 顯 淺 之 詞 ; 理 之 顯 淺 者, 宜 運 之 以 曲 折 之 筆 ; 題 之 熟 者, 參 之 以 新 奇 之 想 ; 題 之 庸 者, 深 之 以 關 繫 之 論。 至 于 窘 者 舒 之 使 長, 縟 者 刪 之 使 簡, 俚 者 文 之 使 雅, 鬧 者 攝 之 使 靜, 皆 所 謂 裁 制 也。
Tác văn chi pháp : ý chi khúc chiết giả, nghi tả chi dĩ hiển thiển chi từ, lý chi hiển thiển giả, nghi vận chi dĩ khúc chiết chi bút, đề chi thục giả, tham chi dĩ tân kỳ chi tưởng, đề chi dung giả, thâm chi dĩ quan hệ chi luận. Chí vu quẫn giả thư chi sử trường, nhục giả san chi sử giản, lý giả văn chi sử nhã, náo giả nhiếp chi sử tĩnh, giai sở vị tài chế dã.
157. Măng tre là vậy quý trong loài rau, trái vải là vật quý trong loài trái cây, cua là vật quý trong loài thủy tộc, rượu là vật quý trong chuyện ẩm thực, trăng là vậy quý trong thiên văn, Tây Hồ là vật quý trong sơn thủy, từ khúc là vật quý trong văn chương.
筍 為 蔬 中 尤 物, 荔 枝 為 果 中 尤 物, 蟹 為 水 族 中 尤 物, 酒 為 飲 食 中 尤 物, 月 為 天 文 中 尤 物, 西 湖 為 山 水 中 尤 物, 詞 曲 為 文 字 中 尤 物。
Duẩn vi sơ trung vưu vật, lệ chi vi quả trung vưu vật, giải vi thủy tộc trung vưu vật, tửu vi ẩm thực trung vưu vật, nguyệt vi thiên văn trung vưu vật, Tây Hồ vi sơn thủy trung vưu vật, từ khúc vi văn tự trung vưu vật
158. Mua được một chậu hoa đẹp, còn biết nâng niu thương tiếc, huống gì là cánh hoa biết nói!
買 得 一 本 好 花, 猶 且 愛 護 而 憐 惜 之, 矧 其 為 解 語 花 乎 !
Mãi đắc nhất bản hảo hoa, do thư ái lân nhi hộ tích chi, thẩn kỳ vi giải ngữ hoa hồ!
159. Nhìn chân tay diện mạo một người đủ biết người đó nhã hay tục, giao du ra sao.
觀 手 中 便 面, 足 以 知 其 人 之 雅 俗, 足 以 識 其 人 之 交 遊。
Quán thủ trung tiện diện, túc dĩ tri kỳ nhân chi nhã tục, túc dĩ thức kỳ nhân chi giao du.
160. Nước là nơi những thứ nhơ bẩn nhất tập trung về, lửa là chỗ những thứ nhơ bẩn nhất không đến được, nhưng nếu biến cái nhơ bẩn thành cái thanh khiết nhất thì nước và lửa cũng như nhau.
水 為 至 污 之 所 會 歸, 火 為 至 污 之 所 不 到, 若 變 不 潔 為 至 潔, 則 水 火 皆 然。
Thủy vi chí ô chi sở hội quy, hỏa vi chí ô chi sở bất đáo. Nhược biến bất khiết nhi vị chí khiết, tắc thủy hỏa giai nhiên.
161. Có những gương mặt xấu mà dễ coi, có những gương mặt dù không xấu mà vẫn khó coi; văn chương có khi không thông suốt mà vẫn đáng yêu, có khi dù thông suốt mà đọc rất chán. Điều đó không dễ gì nói cho hạng nông cạn hiểu được.
貌 有 醜 而 可 觀 者, 有 雖 不 醜 而 不 足 觀 者 ; 文 有 不 通 而 可 愛 者, 有 雖 通 而 極 可 厭 者。 此 未 易 與 淺 人 道 也。
Mạo hữu xú nhi khả quan giả, hữu tuy bất xú nhi bất túc quan giả; văn hữu bất thông nhi khả ái giả, hữu tuy thông nhi cực khả yếm giả. Thử vị dị dữ tiện nhân đạo dã.
162. Du ngọan sơn thủy cũng phải có duyên. Nếu như cơ duyên chưa đến thì dù có cách vài chục dặm cùng không rỗi mà đến được.
遊 玩 山 水 亦 復 有 緣, 苟 機 緣 未 至, 則 雖 近 在 數 十 里 之 內, 亦 無 暇 到 也。
Du ngoạn sơn thủy, diệc phục hữu duyên. Cẩu cơ duyên vị chí, tắc tuy cận tại sổ thập lý chi nội, diệc vô hạ đáo dã.
163. Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, người xưa cho là hiền. Nghèo mà không kiêu, giàu mà không nịnh, người nay cho là nhỏ. Chừng đó cũng đủ để biết thói đời suy đồi.
貧 而 無 諂, 富 而 無 驕, 古 人 之 所 賢 也 ; 貧 而 無 驕, 富 而 無 諂, 今 人 之 所 少 也。 足 以 知 世 風 之 降 矣。
Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, cổ nhân chi sở hiền dã; bần nhi vô kiêu, phú nhi vô siểm, kim nhân chi sở thiếu dã. Túc dĩ tri thế phong chi giáng hỹ.
164. Người xưa muốn đọc sách mười năm, du ngoạn sơn thủy mười năm, kiểm điểm kinh nghiệm mười năm. Tôi cho rằng kiểm điểm kinh nghiệm không cần phải tới mười năm, chỉ cần hai hay ba năm là đủ. Còn thời gian đọc sách hay du sơn ngoạn thủy cần phải tăng lên, e rằng cũng còn chưa thỏa mãn tâm nguyện. Có lẽ phải nó như Hoàng Cửu Yên tiền bối :”Đời người ắt phải tới ba trăm năm mới đủ chăng?”.
昔 人 欲 以 十 年 讀 書, 十 年 遊 山, 十 年 檢 藏。 予 謂 檢 藏 儘 可 不 必 十 年, 只 二 、 三 載 足 矣, 若 讀 書 與 遊 山, 雖 或 相 倍 蓰, 恐 亦 不 足 以 償 所 願 也, 必 也 如 黃 九 煙 前 輩 之 所 云 : 「 人 生 必 三 百 歲 而 後 可 乎 ! 」
Tích nhân dục dĩ thập niên độc thư, thập niên du sơn, thập niên kiểm tàng. Dữ vị kiểm tàng tận khả bất tất thập niên, chỉ nhị tam tải túc hỹ. Nhược độc thư dữ du sơn, tuy hoặc tương bội tỷ, khủng diệc bất túc dĩ thường sở nguyện dã. Tất dã như Hoàng Cửu Yên tiền bối chi sở vân ”Nhân sinh tất tam bách tuế”, nhi hậu khả hồ!
165. Thà bị kẻ tiểu nhân mắng chửi, chứ không để người quân tử xem khinh; thà để quan giám khảo mù đánh rớt, chứ không để các bậc danh túc không biết đến mình.
寧 為 小 人 之 所 罵, 毋 為 君 子 之 所 鄙 ; 寧 為 盲 主 司 之 所 擯 棄, 毋 為 諸 名 宿 所 不 知。
Ninh vi tiểu nhân chi sở mạ, vô vi quân tử chi sở bỉ, ninh vi manh chủ ty chi sở
tẫn khí, vô vi chư danh túc chi sở bất tri.
166. Ngạo cốt(1) không nên thiếu , mà ngạo
tâm(2) thì không nên có; không có ngạo cốt thì gần với bọn người thô bỉ, mang
ngạo tâm thì không thể làm bậc quân tử được.
傲 骨 不 可 無, 傲 心 不 可 有 ; 無 傲 骨 則 近 於 鄙 夫, 有 傲 心 不 得 為 君 子。
Ngạo cốt bất khả vô, ngạo tâm bất khả hữu. Vô ngạo cốt tắc cận ư bỉ phu, hữu ngạo tâm bất đắc vi quân tử.
167. Con ve là Di Tề(3) trong loài trùng, con ong là Quản Yến(4) trong loài trùng.
蟬 為 蟲 中 之 夷 齊, 蜂 為 蟲 中 之 管 晏。
Thiền vi trùng trung chi Di Tề, phong vi trùng trung chi Quản Yến.
168. Nào ”si ngốc”, nào ”ngu dốt”, nào ”vụng về”, nào ”cuồng điên” đều là những chữ không tốt đẹp, nhưng người ta đều vui vì cái đó; nào ”gian trá”, nào ”quỷ quyệt”, nào ”gượng gạo”, nào ”nịnh hót” đều ngược lại, nhưng người ta lại không thấy vui vì cái đó; cớ sao vậy?
曰 「 癡 」 、 曰 「 愚 」 、 曰 「 拙 」 、 曰 「 狂 」, 皆 非 好 字 面, 而 人 每 樂 居 之 ; 曰 「 奸 」 、 曰 「 黠 」 、 曰 「 強 」 、 曰 「 佞 」 反 是, 而 人 每 不 樂 居 之。何 也?
Viết ”Si”, viết ”Ngu”, viết ”Chuyết”, viết ”Cuồng”, giai phi hảo tự diện, nhi nhân mỗi lạc cư chi, viết ”Gian”, viết ”Hiệt”, viết ”Cưỡng”, viết ”Nịnh” phản thị, nhi nhân mỗi bất lạc cư chi. Hà dã?
169. Thời Đường Ngu(5), âm nhạc có thể làm cảm động đến cả cầm thú, bởi vì là đó là cầm thú thời Đường Ngu, nên mới cảm động. Nếu là cầm thú đời sau chắc gì đã được vậy?
唐 虞 之 際, 音 樂 可 感 鳥 獸, 此 蓋 唐 虞 之 鳥 獸, 故 可 感 耳。 若 後 世 之 鳥 獸, 恐 未 必 然。
Đường Ngu chi tế, âm nhạc khả cảm điểu thú, thử cái Đường Ngu chi điểu thú, cố khả cảm nhĩ. Nhược hậu thế chi điểu thú, khủng vị tất nhiên.
170. Đau chịu được chứ ngứa không chịu được; đắng chịu nỗi chứ cay không chịu nỗi.
痛 可 忍, 而 癢 不 可 忍 ; 苦 可 耐, 而 酸 不 可 耐。
Thống khả nhẫn, nhi dưỡng bất khả nhẫn, khổ khả nại, nhi toan bất khả nại.
171. Bóng trong gương làm rõ hình sắc nhân vật, bóng dưới trăng tả được ý tứ nhân vật. Bóng trong gương như bức họa rõ từng nét vẽ, bóng dưới trăng như bức họa không xương. Bóng sông núi trong vừng trăng là địa lý trong thiên văn, hình tượng trăng sao trên sông nước là thiên văn trong địa lý.
鏡 中 之 影, 著 色 人 物 也 ; 月 下 之 影, 寫 意 人 物 也 ; 鏡 中 之 影, 鉤 邊 畫 也 ; 月 下 之 影, 沒 骨 畫 也 ; 月 中 山 河 之 影, 天 文 中 地 理 也 ; 水 中 星 月 之 象,地 理 中 天 文 也。
Kính trung chi ảnh, trước sắc nhân vật dã, nguyệt hạ chi ảnh, tả ý nhân vật dã. Kính trung chi ảnh, câu biên họa dã, nguyệt hạ chi ảnh, một cốt họa dã. Nguyệt trung sơn hà chi ảnh, thiên văn trung địa lý dã; thủy trung tinh nguyệt chi tượng, địa lý trung thiên văn dã.
172. Có đọc được cuốn sách không chữ mới có những câu nói kinh nhân; có thông được những điều khó hiểu mới tham ngộ thiền cơ tối thượng.
能 讀 無 字 之 書 方 可 得 驚 人 妙 句 ; 能 會 難 通 之 解,方 可 參 最 上 禪 機。
Năng độc vô tự chi thư phương khả đắc kinh nhân diệu cú, năng hội nan thông chi giải phương khả tham tối thượng thiền cơ.
173. Nếu không có thơ rượu thì sơn thủy cũng chỉ là vẻ đẹp suông, không có giai nhân thì trăng hoa cũng chỉ bày ra cho uổng phí.
若 無 詩 酒, 則 山 水 為 具 文 ; 若 無 佳 麗, 則 花 月 皆 虛 設。
Nhược vô thi tửu, tắc sơn thủy vi cụ văn; nhược vô giai lệ, tắc hoa nguyệt giai hư thiết.
174. Tài tử mà lại xinh đẹp, giai nhân mà lại biết làm thơ văn thì không thể nào thọ được. Không phải chỉ vì Tạo vật đố kỵ, mà còn vì hạng người đó không chỉ là vật báu một thời mà là vật báu của vạn đời, cho nên không thể lưu lại lâu trên cõi thế mà hóa ra nhàm.
才 子 而 美 姿 容, 佳 人 而 工 著 作, 斷 不 能 永 年 者。 匪 獨 為 造 物 之 所 忌, 蓋 此 種 原 不 獨 為 一 時 之 寶, 乃 古 今 萬 世 之 寶, 故 不 欲 久 留 人 世, 以 取 褻 耳。
Tài tử nhi mỹ tư dung, giai nhân nhi công trước tác, đoạn bất năng vĩnh niên giả. Phỉ độc vị tạo vật chi sở kỵ, cái thử chủng nguyên bất độc vi nhất thời chi bảo, nãi cổ kim vạn thế chi bảo, cố bất dục cửu lưu nhân thế, dĩ thủ tiết nhĩ.
175. Nghiên mực của người nhàn nhã cố nhiên cần phải đẹp, nhưng nghiên mực của người bận rộn lại càng không thể không đẹp được. Vợ lẽ để vui tình cố nhiên là phải đẹp, nhưng vợ lẽ để sinh con nối dõi cũng không thể không đẹp được.
閒 人 之 硯, 固 欲 其 佳, 而 忙 人 之 硯, 尤 不 可 不 佳 ; 娛 情 之 妾, 固 欲 其 美, 而 廣 嗣 之 妾, 亦 不 可 不 美。
Nhàn nhân chi nghiễn cố dục kỳ giai, nhi mang nhân chi nghiễn vưu bất khả bất giai; ngu tình chi thiếp cố dục kỳ mỹ, nhi quảng tự chi thiếp diệc bất khả bất mỹ.
176. Thế nào là tự vui một mình? Đó là gãy đàn cầm. Thế nào là cùng vui với một người? Đó là đánh cờ. Thế nào là cùng vui với nhiều người? Đó là đánh bài.
如 何 是 獨 樂 樂 ? 曰 鼓 琴 ; 如 何 是 與 人 樂 樂 ? 曰 弈 棋 ; 如 何 是 與 眾 樂 樂 ? 曰 馬 弔。
Như hà thị độc lạc lạc? Viết cổ cầm. Như hà thị dữ nhân lạc lạc? Viết dịch kỳ. Như hà thị dữ chúng lạc lạc? Viết mã điếu.
177. Không đợi dạy đã biết thiện biết ác, đó là thai sinh; phải đợi dạy rồi mới biết biết thiện biết ác, đó là noãn sinh; nhân ngẫu nhiên cảm xúc một sự việc mà biết thiện biết ác, đó là thấp sinh; phân rõ rạch ròi sau trước, không phải duyên cớ một ngày, đó là hóa sinh(6).
不 待 教 而 為 善 為 惡 者, 胎 生 也 ; 必 待 教 而 後 為 善 為 惡 者, 卵 生 也 ; 偶 因 一 事 之 感 觸, 而 突 然 為 善 為 惡 者, 濕 生 也 ; 前 後 判 若 兩 截, 究 非 一 日 之 故 者,化 生 也。
Bất đãi giáo nhi vi thiện vi ác giả, thai sinh dã; tất đãi giáo nhi hậu vi thiện vi ác giả, noãn sinh dã; ngẫu nhân nhất sự chi cảm xúc, nhi đột nhiên vi thiện vi ác giả, thấp sinh dã; tiền hậu phán nhược lượng tiệt, cứu phi nhất nhật chi cố giả, hóa sinh dã.
178. Phàm vật đều dùng hình thể, nếu dùng đến tinh thần ắt chỉ có kính, phù ấn, nhật quỹ(7) và kim nam châm.
凡 物 皆 以 形 用, 其 以 神 用 者, 則 鏡 也, 符 印 也, 日 晷 也, 指 南 針 也。
Phàm vật giai dĩ hình dụng; kỳ dĩ thần dụng giả tắc kính dã, phù ấn dã, nhật quỹ dã, chỉ nam châm dã.
179. Tài tử gặp tài tử đều có lòng mến tài; mỹ nhân gặp mỹ nhân đều có ý ganh sắc. Tôi nguyện kiếp sau thác sinh làm tuyệt đại giai nhân, làm ngược lại chuyện đó mới là khoan khoái.
才 子 遇 才 子, 每 有 憐 才 之 心 ; 美 人 遇 美 人, 必 無 惜 美 之 意。 我 願 來 世 托 生 為 絕 代 佳 人, 一 反 其 局 而 後 快。
Tài tử ngộ tài tử, mỗi hữu lân tài chi tâm; mỹ nhân ngộ mỹ nhân, tất vô tích mỹ chi ý. Ngã nguyện lai thế thác sinh vi tuyệt đại giai nhân, nhất phiên kỳ cục nhi hậu khoái.
180. Tôi thường muốn lập Vô già đại hội(8) để xét hết tài tử giai nhân của mọi thời. Chờ đến khi gặp được cao tăng chân chính thì thì mới nên làm.
予 嘗 欲 建 一 無 遮 大 會, 一 祭 歷 代 才 子, 一 祭 歷 代 佳 人。 俟 遇 有 真 正 高 僧, 即 當 為 之。
Dư thường dục kiển nhất Vô Già đại hội, nhất sát lịch đại tài tử, nhất sát lịch đại giai nhân. Sĩ ngộ hữu chân chính cao tăng, tức đương vi chi.
181. Thánh hiền là những bậc hóa thân của trời đất.
聖 賢 者,天 地 之 替 身。
Thánh hiền giả, thiên địa chi thế thân
182. Điều mà Trời dễ làm nhất là chỉ nên sinh bậc nhân đức, quân tử, kẻ có tài đức, chỉ cần hai ba chục người là đủ. Vua một người, tướng quốc một người, tể tướng một người, rồi đến các bậc thống chế phủ quân.
天 極 不 難 做, 只 須 生 仁 人 、 君 子 、 有 才 德 者, 二 、 三 十 人 足 矣。 君 一 、 相 一 、 冢 宰 一, 及 諸 路 總 制 撫 軍 是 也。
Thiên cực bất nan tố, chỉ tu sinh nhân nhân, quân tử, hữu tài đức giả, nhị, tam thập nhân túc hỹ! Quân nhất, tướng nhất, trũng tể nhất, cập chư lộ tổng chế phủ quân thị dã.
183. Cảnh lên xuống trong chốn quan trường, điều quan trọng là đạo đức, điều cần tránh là hối lộ. Sao tên mới đăng vào danh sách quan, mà đã làm ngược ngay rồi?
擲 陞 官 圖, 所 重 在 德, 所 忌 在 贓。 何 一 登 仕 版, 輒 與 之 相 反 耶 ?
Trịch thăng quan đồ, sở trọng tại đức, sở kỵ tại tang. Hà nhất đăng sĩ bản, triếp dữ chi tương phản da?
184. Trong động vật có tam giáo(9): các loài giao, long, lân, phượng gần với đạo Nho; các loài vượn, cáo, hạc, nai gần với đạo Tiên; các loài sư tử, trâu bò gần với đạo Phật. Trong thực vật cũng có tam giáo : các loài trúc, ngô đồng, lan huệ gần với đạo Nho; các loài bàn đào, quế già gần với đạo Tiên; hoa sen, cây nho gần với đạo Phật.
動 物 中 有 三 教 焉 : 蛟 龍 麟 鳳 之 屬, 近 於 儒 者 也 ; 猿 狐 鶴 鹿 之 屬, 近 於 仙 者 也 ; 獅 子 牯 牛 之 屬, 近 於 釋 者 也。 植 物 中 有 三 教 焉 : 竹 梧 蘭 蕙 之 屬, 近 於 儒 者 也 ; 蟠 桃 老 桂 之 屬, 近 於 仙 者 也 ; 蓮 花 薝 蔔 之 屬, 近 於 釋 者 也。
Động vật trung hữu tam giáo yên : giao long lân phụng chi thuộc, cận ư Nho giả dã, viên hồ hạc lộc chi thuộc, cận ư Tiên giả dã, sư tử cổ ngưu chi thuộc, cận ư Thích giả dã. Trí vật trung hữu tam giáo yên, trúc ngô lan huệ chi thuộc, cận ư Nho giả dã, bàn đào lão quế chi thuộc, cận ư Tiên giả dã, liên hoa bồ đào chi thuộc, cận ư Thích giả dã.
185. Phật nói :”Mặt trời mặt trăng ở bên hông núi Tu Di.” Nếu quả vậy thì mặt trời mặt trăng phải đi vòng quanh quả núi Tu Di mới phải, vì nếu có mọc lặn thì sẽ vướng vào đỉnh núi mất. Lại nói : “Trên mặt đất có ao A Nậu Đạt, nước chảy bốn bề, chảy vào Ấn Độ.” Lại nói : “Dưới địa luân là thủy luân, dưới thủy luân là phong luân, dưới phong luân là không luân ”. Tôi cho rằng đây chỉ là hình ảnh ví dụ về thân thể con người. Núi Tu Di dụ cho đầu người, mặt trời mặt trăng dụ cho hai mắt, ao nước chảy bốn bề dụ cho mạch máu lưu động, địa luân dụ cho thân thể, nước chỉ các chất dịch, gió chỉ hơi thở, ngoài ra chẳng có gì khác.
佛 氏 云 : 「 日 月 在 須 彌 山 腰。 」 果 爾, 則 日 月 必 是 遶 山 橫 行 而 後 可, 苟 有 升 有 降, 必 為 山 巔 所 礙 矣。 又 云 : 「 地 上 有 阿 耨 達 池, 其 水 四 出, 流 入 諸 印 度。 」 又 云 : 「 地 輪 之 下 為 水 輪, 水 輪 之 下 為 風 輪, 風 輪 之 下 為 空 輪。 」 余 謂 此 皆 喻 言 人 身 也, 須 彌 山 喻 人 首, 日 月 喻 兩 目, 池 水 四 出 喻 血 脈 流 動, 地 輪 喻 此 身, 水 為 便 溺, 風 為 洩 氣, 此 下 則 無 物 矣。
Phật thị vân :”Nhật nguyệt tại Tu Di sơn yêu.”Quả nhĩ, tắc nhật nguyệt tất thị nhiễu sơn hoành hành nhi hậu khả, cẩu hữu thăng hữu giáng, tất vi sơn điên sở ngại hỹ. Hựu vân: ”Địa thượng hữu A Nậu Đạt trì, kỳ thủy tứ xuất, lưu nhập chư Ấn Độ.” Hựu vân: ”Địa luân chi hạ vị thủy luân, thủy luân chi hạ vị phong luân, phong luân chi hạ vị không luân.” Dư vị thử giai dụ ngôn nhân thân dã : Tu Di sơn dụ nhân thủ, nhật nguyệt dụ lượng mục, trì thủy tứ xuất dụ huyết mạch lưu thông, địa luân dụ thử thân, thủy vị tiện nịch, phong vị duệ khí. Thử hạ tắc vô vật hỹ.
傲 骨 不 可 無, 傲 心 不 可 有 ; 無 傲 骨 則 近 於 鄙 夫, 有 傲 心 不 得 為 君 子。
Ngạo cốt bất khả vô, ngạo tâm bất khả hữu. Vô ngạo cốt tắc cận ư bỉ phu, hữu ngạo tâm bất đắc vi quân tử.
167. Con ve là Di Tề(3) trong loài trùng, con ong là Quản Yến(4) trong loài trùng.
蟬 為 蟲 中 之 夷 齊, 蜂 為 蟲 中 之 管 晏。
Thiền vi trùng trung chi Di Tề, phong vi trùng trung chi Quản Yến.
168. Nào ”si ngốc”, nào ”ngu dốt”, nào ”vụng về”, nào ”cuồng điên” đều là những chữ không tốt đẹp, nhưng người ta đều vui vì cái đó; nào ”gian trá”, nào ”quỷ quyệt”, nào ”gượng gạo”, nào ”nịnh hót” đều ngược lại, nhưng người ta lại không thấy vui vì cái đó; cớ sao vậy?
曰 「 癡 」 、 曰 「 愚 」 、 曰 「 拙 」 、 曰 「 狂 」, 皆 非 好 字 面, 而 人 每 樂 居 之 ; 曰 「 奸 」 、 曰 「 黠 」 、 曰 「 強 」 、 曰 「 佞 」 反 是, 而 人 每 不 樂 居 之。何 也?
Viết ”Si”, viết ”Ngu”, viết ”Chuyết”, viết ”Cuồng”, giai phi hảo tự diện, nhi nhân mỗi lạc cư chi, viết ”Gian”, viết ”Hiệt”, viết ”Cưỡng”, viết ”Nịnh” phản thị, nhi nhân mỗi bất lạc cư chi. Hà dã?
169. Thời Đường Ngu(5), âm nhạc có thể làm cảm động đến cả cầm thú, bởi vì là đó là cầm thú thời Đường Ngu, nên mới cảm động. Nếu là cầm thú đời sau chắc gì đã được vậy?
唐 虞 之 際, 音 樂 可 感 鳥 獸, 此 蓋 唐 虞 之 鳥 獸, 故 可 感 耳。 若 後 世 之 鳥 獸, 恐 未 必 然。
Đường Ngu chi tế, âm nhạc khả cảm điểu thú, thử cái Đường Ngu chi điểu thú, cố khả cảm nhĩ. Nhược hậu thế chi điểu thú, khủng vị tất nhiên.
170. Đau chịu được chứ ngứa không chịu được; đắng chịu nỗi chứ cay không chịu nỗi.
痛 可 忍, 而 癢 不 可 忍 ; 苦 可 耐, 而 酸 不 可 耐。
Thống khả nhẫn, nhi dưỡng bất khả nhẫn, khổ khả nại, nhi toan bất khả nại.
171. Bóng trong gương làm rõ hình sắc nhân vật, bóng dưới trăng tả được ý tứ nhân vật. Bóng trong gương như bức họa rõ từng nét vẽ, bóng dưới trăng như bức họa không xương. Bóng sông núi trong vừng trăng là địa lý trong thiên văn, hình tượng trăng sao trên sông nước là thiên văn trong địa lý.
鏡 中 之 影, 著 色 人 物 也 ; 月 下 之 影, 寫 意 人 物 也 ; 鏡 中 之 影, 鉤 邊 畫 也 ; 月 下 之 影, 沒 骨 畫 也 ; 月 中 山 河 之 影, 天 文 中 地 理 也 ; 水 中 星 月 之 象,地 理 中 天 文 也。
Kính trung chi ảnh, trước sắc nhân vật dã, nguyệt hạ chi ảnh, tả ý nhân vật dã. Kính trung chi ảnh, câu biên họa dã, nguyệt hạ chi ảnh, một cốt họa dã. Nguyệt trung sơn hà chi ảnh, thiên văn trung địa lý dã; thủy trung tinh nguyệt chi tượng, địa lý trung thiên văn dã.
172. Có đọc được cuốn sách không chữ mới có những câu nói kinh nhân; có thông được những điều khó hiểu mới tham ngộ thiền cơ tối thượng.
能 讀 無 字 之 書 方 可 得 驚 人 妙 句 ; 能 會 難 通 之 解,方 可 參 最 上 禪 機。
Năng độc vô tự chi thư phương khả đắc kinh nhân diệu cú, năng hội nan thông chi giải phương khả tham tối thượng thiền cơ.
173. Nếu không có thơ rượu thì sơn thủy cũng chỉ là vẻ đẹp suông, không có giai nhân thì trăng hoa cũng chỉ bày ra cho uổng phí.
若 無 詩 酒, 則 山 水 為 具 文 ; 若 無 佳 麗, 則 花 月 皆 虛 設。
Nhược vô thi tửu, tắc sơn thủy vi cụ văn; nhược vô giai lệ, tắc hoa nguyệt giai hư thiết.
174. Tài tử mà lại xinh đẹp, giai nhân mà lại biết làm thơ văn thì không thể nào thọ được. Không phải chỉ vì Tạo vật đố kỵ, mà còn vì hạng người đó không chỉ là vật báu một thời mà là vật báu của vạn đời, cho nên không thể lưu lại lâu trên cõi thế mà hóa ra nhàm.
才 子 而 美 姿 容, 佳 人 而 工 著 作, 斷 不 能 永 年 者。 匪 獨 為 造 物 之 所 忌, 蓋 此 種 原 不 獨 為 一 時 之 寶, 乃 古 今 萬 世 之 寶, 故 不 欲 久 留 人 世, 以 取 褻 耳。
Tài tử nhi mỹ tư dung, giai nhân nhi công trước tác, đoạn bất năng vĩnh niên giả. Phỉ độc vị tạo vật chi sở kỵ, cái thử chủng nguyên bất độc vi nhất thời chi bảo, nãi cổ kim vạn thế chi bảo, cố bất dục cửu lưu nhân thế, dĩ thủ tiết nhĩ.
175. Nghiên mực của người nhàn nhã cố nhiên cần phải đẹp, nhưng nghiên mực của người bận rộn lại càng không thể không đẹp được. Vợ lẽ để vui tình cố nhiên là phải đẹp, nhưng vợ lẽ để sinh con nối dõi cũng không thể không đẹp được.
閒 人 之 硯, 固 欲 其 佳, 而 忙 人 之 硯, 尤 不 可 不 佳 ; 娛 情 之 妾, 固 欲 其 美, 而 廣 嗣 之 妾, 亦 不 可 不 美。
Nhàn nhân chi nghiễn cố dục kỳ giai, nhi mang nhân chi nghiễn vưu bất khả bất giai; ngu tình chi thiếp cố dục kỳ mỹ, nhi quảng tự chi thiếp diệc bất khả bất mỹ.
176. Thế nào là tự vui một mình? Đó là gãy đàn cầm. Thế nào là cùng vui với một người? Đó là đánh cờ. Thế nào là cùng vui với nhiều người? Đó là đánh bài.
如 何 是 獨 樂 樂 ? 曰 鼓 琴 ; 如 何 是 與 人 樂 樂 ? 曰 弈 棋 ; 如 何 是 與 眾 樂 樂 ? 曰 馬 弔。
Như hà thị độc lạc lạc? Viết cổ cầm. Như hà thị dữ nhân lạc lạc? Viết dịch kỳ. Như hà thị dữ chúng lạc lạc? Viết mã điếu.
177. Không đợi dạy đã biết thiện biết ác, đó là thai sinh; phải đợi dạy rồi mới biết biết thiện biết ác, đó là noãn sinh; nhân ngẫu nhiên cảm xúc một sự việc mà biết thiện biết ác, đó là thấp sinh; phân rõ rạch ròi sau trước, không phải duyên cớ một ngày, đó là hóa sinh(6).
不 待 教 而 為 善 為 惡 者, 胎 生 也 ; 必 待 教 而 後 為 善 為 惡 者, 卵 生 也 ; 偶 因 一 事 之 感 觸, 而 突 然 為 善 為 惡 者, 濕 生 也 ; 前 後 判 若 兩 截, 究 非 一 日 之 故 者,化 生 也。
Bất đãi giáo nhi vi thiện vi ác giả, thai sinh dã; tất đãi giáo nhi hậu vi thiện vi ác giả, noãn sinh dã; ngẫu nhân nhất sự chi cảm xúc, nhi đột nhiên vi thiện vi ác giả, thấp sinh dã; tiền hậu phán nhược lượng tiệt, cứu phi nhất nhật chi cố giả, hóa sinh dã.
178. Phàm vật đều dùng hình thể, nếu dùng đến tinh thần ắt chỉ có kính, phù ấn, nhật quỹ(7) và kim nam châm.
凡 物 皆 以 形 用, 其 以 神 用 者, 則 鏡 也, 符 印 也, 日 晷 也, 指 南 針 也。
Phàm vật giai dĩ hình dụng; kỳ dĩ thần dụng giả tắc kính dã, phù ấn dã, nhật quỹ dã, chỉ nam châm dã.
179. Tài tử gặp tài tử đều có lòng mến tài; mỹ nhân gặp mỹ nhân đều có ý ganh sắc. Tôi nguyện kiếp sau thác sinh làm tuyệt đại giai nhân, làm ngược lại chuyện đó mới là khoan khoái.
才 子 遇 才 子, 每 有 憐 才 之 心 ; 美 人 遇 美 人, 必 無 惜 美 之 意。 我 願 來 世 托 生 為 絕 代 佳 人, 一 反 其 局 而 後 快。
Tài tử ngộ tài tử, mỗi hữu lân tài chi tâm; mỹ nhân ngộ mỹ nhân, tất vô tích mỹ chi ý. Ngã nguyện lai thế thác sinh vi tuyệt đại giai nhân, nhất phiên kỳ cục nhi hậu khoái.
180. Tôi thường muốn lập Vô già đại hội(8) để xét hết tài tử giai nhân của mọi thời. Chờ đến khi gặp được cao tăng chân chính thì thì mới nên làm.
予 嘗 欲 建 一 無 遮 大 會, 一 祭 歷 代 才 子, 一 祭 歷 代 佳 人。 俟 遇 有 真 正 高 僧, 即 當 為 之。
Dư thường dục kiển nhất Vô Già đại hội, nhất sát lịch đại tài tử, nhất sát lịch đại giai nhân. Sĩ ngộ hữu chân chính cao tăng, tức đương vi chi.
181. Thánh hiền là những bậc hóa thân của trời đất.
聖 賢 者,天 地 之 替 身。
Thánh hiền giả, thiên địa chi thế thân
182. Điều mà Trời dễ làm nhất là chỉ nên sinh bậc nhân đức, quân tử, kẻ có tài đức, chỉ cần hai ba chục người là đủ. Vua một người, tướng quốc một người, tể tướng một người, rồi đến các bậc thống chế phủ quân.
天 極 不 難 做, 只 須 生 仁 人 、 君 子 、 有 才 德 者, 二 、 三 十 人 足 矣。 君 一 、 相 一 、 冢 宰 一, 及 諸 路 總 制 撫 軍 是 也。
Thiên cực bất nan tố, chỉ tu sinh nhân nhân, quân tử, hữu tài đức giả, nhị, tam thập nhân túc hỹ! Quân nhất, tướng nhất, trũng tể nhất, cập chư lộ tổng chế phủ quân thị dã.
183. Cảnh lên xuống trong chốn quan trường, điều quan trọng là đạo đức, điều cần tránh là hối lộ. Sao tên mới đăng vào danh sách quan, mà đã làm ngược ngay rồi?
擲 陞 官 圖, 所 重 在 德, 所 忌 在 贓。 何 一 登 仕 版, 輒 與 之 相 反 耶 ?
Trịch thăng quan đồ, sở trọng tại đức, sở kỵ tại tang. Hà nhất đăng sĩ bản, triếp dữ chi tương phản da?
184. Trong động vật có tam giáo(9): các loài giao, long, lân, phượng gần với đạo Nho; các loài vượn, cáo, hạc, nai gần với đạo Tiên; các loài sư tử, trâu bò gần với đạo Phật. Trong thực vật cũng có tam giáo : các loài trúc, ngô đồng, lan huệ gần với đạo Nho; các loài bàn đào, quế già gần với đạo Tiên; hoa sen, cây nho gần với đạo Phật.
動 物 中 有 三 教 焉 : 蛟 龍 麟 鳳 之 屬, 近 於 儒 者 也 ; 猿 狐 鶴 鹿 之 屬, 近 於 仙 者 也 ; 獅 子 牯 牛 之 屬, 近 於 釋 者 也。 植 物 中 有 三 教 焉 : 竹 梧 蘭 蕙 之 屬, 近 於 儒 者 也 ; 蟠 桃 老 桂 之 屬, 近 於 仙 者 也 ; 蓮 花 薝 蔔 之 屬, 近 於 釋 者 也。
Động vật trung hữu tam giáo yên : giao long lân phụng chi thuộc, cận ư Nho giả dã, viên hồ hạc lộc chi thuộc, cận ư Tiên giả dã, sư tử cổ ngưu chi thuộc, cận ư Thích giả dã. Trí vật trung hữu tam giáo yên, trúc ngô lan huệ chi thuộc, cận ư Nho giả dã, bàn đào lão quế chi thuộc, cận ư Tiên giả dã, liên hoa bồ đào chi thuộc, cận ư Thích giả dã.
185. Phật nói :”Mặt trời mặt trăng ở bên hông núi Tu Di.” Nếu quả vậy thì mặt trời mặt trăng phải đi vòng quanh quả núi Tu Di mới phải, vì nếu có mọc lặn thì sẽ vướng vào đỉnh núi mất. Lại nói : “Trên mặt đất có ao A Nậu Đạt, nước chảy bốn bề, chảy vào Ấn Độ.” Lại nói : “Dưới địa luân là thủy luân, dưới thủy luân là phong luân, dưới phong luân là không luân ”. Tôi cho rằng đây chỉ là hình ảnh ví dụ về thân thể con người. Núi Tu Di dụ cho đầu người, mặt trời mặt trăng dụ cho hai mắt, ao nước chảy bốn bề dụ cho mạch máu lưu động, địa luân dụ cho thân thể, nước chỉ các chất dịch, gió chỉ hơi thở, ngoài ra chẳng có gì khác.
佛 氏 云 : 「 日 月 在 須 彌 山 腰。 」 果 爾, 則 日 月 必 是 遶 山 橫 行 而 後 可, 苟 有 升 有 降, 必 為 山 巔 所 礙 矣。 又 云 : 「 地 上 有 阿 耨 達 池, 其 水 四 出, 流 入 諸 印 度。 」 又 云 : 「 地 輪 之 下 為 水 輪, 水 輪 之 下 為 風 輪, 風 輪 之 下 為 空 輪。 」 余 謂 此 皆 喻 言 人 身 也, 須 彌 山 喻 人 首, 日 月 喻 兩 目, 池 水 四 出 喻 血 脈 流 動, 地 輪 喻 此 身, 水 為 便 溺, 風 為 洩 氣, 此 下 則 無 物 矣。
Phật thị vân :”Nhật nguyệt tại Tu Di sơn yêu.”Quả nhĩ, tắc nhật nguyệt tất thị nhiễu sơn hoành hành nhi hậu khả, cẩu hữu thăng hữu giáng, tất vi sơn điên sở ngại hỹ. Hựu vân: ”Địa thượng hữu A Nậu Đạt trì, kỳ thủy tứ xuất, lưu nhập chư Ấn Độ.” Hựu vân: ”Địa luân chi hạ vị thủy luân, thủy luân chi hạ vị phong luân, phong luân chi hạ vị không luân.” Dư vị thử giai dụ ngôn nhân thân dã : Tu Di sơn dụ nhân thủ, nhật nguyệt dụ lượng mục, trì thủy tứ xuất dụ huyết mạch lưu thông, địa luân dụ thử thân, thủy vị tiện nịch, phong vị duệ khí. Thử hạ tắc vô vật hỹ.
186. Bóng trong gương và dưới nước là bóng nhận, bóng dưới nắng và trước đèn là bóng cho. Bóng trăng trên trời là bóng cho, còn bóng trăng dưới đất là bóng nhận.
鏡 與 水 之 影, 所 受 者 也 ; 日 與 燈 之 影, 所 施 者 也。 月 之 有 影, 則 在 天 者 為 受, 而 在 地 者 為 施 也。
Kính dữ thủy chi ảnh, sở thụ giả dã, nhật dữ đăng chi ảnh, sở thí giả dã, nguyệt chi hữu ảnh, tắc tại thiên giả vi thụ nhi tại địa giả vi thí dã.
187. Nước có bốn thứ tiếng : có tiếng thác đổ, có tiếng suối reo, có tiếng ghềnh chảy, có tiếng ngòi lạch róc rách; gió có ba thứ tiếng : có tiếng lao xao thổi ngọn thông như sóng dậy, có tiếng xào xạc trong cây cỏ mùa thu, có tiếng thổi sóng vỗ ì ầm; mưa có hai thứ tiếng : có tiếng mưa rơi trên lá ngô đồng, có tiếng rơi trong thùng tre hứng dưới mái hiên.
水 之 為 聲, 有 四 : 有 瀑 布 聲, 有 流 泉 聲, 有 灘 聲, 有 溝 澮 聲。 風 之 為 聲, 有 三 : 有 松 濤 聲, 有 秋 葉 聲, 有 波 浪 聲。 雨 之 為 聲, 有 二 : 有 梧 葉 荷 葉 上 聲, 有 承 簷 溜 竹 筩 中 聲。
Thủy chi vi thanh hữu tứ : hữu bộc bố thanh, hữu lưu tuyền thanh, hữu than thanh, hữu câu hội thanh; phong chi vi thanh hữu tam : hữu tùng đào thanh, hữu thu thảo thanh, hữu ba lãng thanh; vũ chi vi thanh hữu nhị : hữu ngô tiêu hạ diệp thượng thanh, hữu thừa diêm lưu đồng trung thanh.
188. Văn nhân thường chê bai khinh rẻ bọn nhà giàu, nhưng đối với thơ văn hay thì lại dùng toàn vàng ngọc, châu báu, gấm vóc để ca ngợi. Vì sao vậy?
文 人 每 好 鄙 薄 富 人, 然 於 詩 文 之 佳 者, 又 往 往 以 金 玉 、 珠 璣 、 錦 繡 譽 之, 則 又 何 也 ?
Văn nhân mỗi háo bỉ bạc phú nhân, nhiên ư thi văn chi giai giả, hựu vãng vãng dĩ kim ngọc châu cơ cẩm tú dự chi, tắc hựu hà dã?
189. Có thể nhàn nhã về chuyện người đời bận rộn thì mới có thể bận rộn về chuyện người đời nhàn nhã.
能 閒 世 人 之 所 忙 者, 方 能 忙 世 人 之 所 閒。
Năng nhàn thế nhân chi sở mang giả, phương năng mang thế nhân chi sở nhàn.
190. Đọc kinh trước rồi đọc sử sau thì bàn luận mới không sai với ý thánh hiền, đọc sử trước rồi đọc kinh sau thì thấy sách vở chỉ toàn là chương cú.
先 讀 經, 後 讀 史, 則 論 事 不 謬 於 聖 賢 ; 既 讀 史, 復 讀 經, 則 觀 書 不 徒 為 章 句。
Tiên độc kinh, hậu độc sử, tác luận sự bất mậu ư thánh hiền; ký độc sử, hậu độc kinh, tắc quan thư bất đồ vi chương cú.
191. Sống ở thành thị thì lấy tranh vẽ làm sơn thủy, bồn chậu làm vườn cây, lấy sách vở làm bè bạn.
居 城 市 中, 當 以 畫 幅 當 山 水, 以 盆 景 當 苑 囿, 以 書 籍 當 朋 友。
Cư thành thị trung, đương dĩ họa phú đương sơn thủy, dĩ bồn cảnh đương uyển hựu, dĩ thư tịch đương hữu bằng.
192. Sống ở hương thôn cần phải có bạn hiền mới là hay. Nếu là nông dân hay tiều phu thì chỉ biết phân loại ngũ cốc và đoán thời tiết gió mưa, không khỏi mau chán; cho nên nếu trong bạn bè có người biết làm thơ là quý nhất, kế đến là bạn biết nói chuyện, sau đó là bạn biết ca hát, sau cùng là bạn biết uống rượu.
鄉 居 須 得 良 朋 始 佳。 若 田 夫 樵 子, 僅 能 辨 五 穀 而 測 晴 雨, 久 且 數, 未 免 生 厭 矣。 而 友 之 中, 又 當 以 能 詩 為 第 一, 能 談 次 之, 能 畫 次 之, 能 歌 又 次 之, 解 觴 政 者 又 次 之。
Lân cư tu đắc lương bằng thủy giai. Nhược điền phù tiều tử, cận năng biện ngũ cốc nhi trắc tình vũ, cửu thả số, vị miễn sinh yếm hỹ. Nhi hữu chi trung, hựu đương dĩ năng thi vi đệ nhất, năng đàm thứ chi, năng họa thứ chi, năng ca hựu thứ chi, giải trường chính giả hựu thứ chi.
193. Ngọc lan là Bá Di trong loài hoa, hoa quỳ là Y Doãn(10) trong loài hoa, hoa sen là Liễu Hạ Huệ(11) trong loài hoa. Hạc là Bá Di trong loài chim, gà là Y Doãn trong loài chim, chim oanh là Liễu Hạ Huệ trong loài chim.
玉 蘭, 花 中 之 伯 夷 也 ; 葵, 花 中 之 伊 尹 也 ; 蓮, 花 中 之 柳 下 惠 也。 鶴, 鳥 中 之 伯 夷 也 ; 雞, 鳥 中 之 伊 尹 也 ; 鶯, 鳥 中 之 柳 下 惠 也。
Ngọc lan, hoa trung chi Bá Di dã. Quỳ, hoa trung chi Y Doãn dã. Liên, hoa trung Liễu Hạ Huệ dã. Hạc, điểu trung chi Bá Di dã. Kê, điểu trung chi Y Doãn dã. Oanh, điểu trung chi Liễu Hạ Huệ dã.
194. Không có tội nhưng lại mang tiếng ác, đó là con bọ bạc(12); có tội nhưng vẫn tránh được lời chê bai, đó là con nhện.
無 其 罪 而 虛 受 惡 名 者, 蠹 魚 也 ; 有 其 罪 而 恆 逃 清 議 者, 蜘 蛛 也。
Vô kỳ tội nhi khư thụ ố danh giả, đố ngư dã; hữu kỳ tội nhi hằng đào thanh nghị giả, tri thù dã.
195. Hôi nát mà biến thành thần kỳ đó là tương, đậu hủ; còn từ thần kỳ biến lại thành hôi nát ắt các vật này cũng vậy.
臭 腐 化 為 神 奇, 醬 也 、 腐 乳 也 、 金 汁 也 ; 至 神 奇 化 為 臭 腐, 則 是 物 皆 然。
Xú hủ hóa vi thần kỳ, tương dã, hủ nhũ dã, kim trấp dã; chí thần kỳ hóa vi xú hủ, tắc thị vật giai nhiên.
196. Màu đen hòa với mà trắng, màu đen làm hoen màu trắng, mà màu trắng không che nỗi màu đen; mùi thơm trộn lẫn với mùi thối, mùi thối lấn mùi thơm, mà mùi thơm không địch nỗi mùi thối; đó là cái xu thế của quân tử so với tiểu nhân vậy.
黑 與 白 交, 黑 能 污 白, 白 不 能 掩 黑 ; 香 與 臭 混, 臭 能 勝 香, 香 不 能 敵 臭 ; 此 君 子 小 人 相 攻 之 大 勢 也。
Hắc dữ bạch giao, hắc năng ô bạch, bạch bất năng yểm hắc; hương dữ xú hỗn, xú năng thắng hương, hương bất năng địch xú. Thử quân tử tiểu nhân tương công chi đại thế dã.
197. Một chữ”sỉ” (xấu hổ) có thể trị được người quân tử, một chữ”thống” (đau đớn) có thể trị được kẻ tiểu nhân.
「恥」之 一 字,所 以 治 君 子; 「痛」 之 一 字,所 以 治 小 人。
“Sỉ” chi nhất tự, sở dĩ trị quân tử, ”thống” chi nhất tự, sở dĩ trị tiểu nhân.
198. Gương không thể tự soi, cân không thể tự cân, kiếm không thể tự chém.
鏡 不 能 自 照, 衡 不 能 自 權, 劍 不 能 自 擊。
Kính bất năng tự chiếu, hành bất năng tự quyền, kiếm bất năng tự kích.
199. Người xưa: "Thơ tất phải cùng khốn rồi sau mới hay". Bởi cùng khốn thì có nhiều cảm khái, dễ tìm thấy được cái sở trường. Nếu là kẻ phú quý, đã không thể lo khổ than nghèo, lời đàm luận chẳng qua cũng chỉ nói đến trăng gió khói mây, thì thơ làm sao mà hay cho được? Muốn biến đổi thì có một cách là đi du ngoạn, thấy được núi sông phong thổ, sản vật nhân tình, những cảnh lửa binh tang tóc, hoặc cảnh hạn hán thiên tai, chẳng có gì là không thể gởi vào thơ. Đem nỗi sầu bi cùng khốn của người để hỗ trợ cho lời ta thán trong thơ của ta, thì thơ cũng không cần "phải cùng khốn rồi sau mới hay" vậy.
古 人 云 : 「 詩 必 窮 而 後 工。 」 蓋 窮 則 與 多 感 慨, 易 於 見 長 耳。 若 富 貴 中 人, 既 不 可 憂 貧 歎 賤, 所 談 者 不 過 風 雲 月 露 而 已, 詩 安 得 佳 ? 苟 思 所 變, 計 惟 有 出 遊 一 法。即 以 所 見 之 山 川 風 土 物 產 人 情, 或 當 瘡 痍 兵 燹 之 餘, 或 值 旱 潦 災 祲 之 後, 無 一 不 可 寓 之 詩 中。 借 他 人 之 窮 愁, 以 供 我 之 詠 歎, 則 詩 亦 不 必 待 窮 而 後 工 也。
Cổ nhân vân: "Thi tất cùng nhi hậu công". Cái cùng tắc ngữ đa cảm khái, dị ư kiến trường nhĩ. Nhược phú quý trung nhân, ký bất khả ưu bần thán tiện, sở đàm giả bất quá phong vân nguyệt lộ nhi dĩ, thi an đắc giai. Cẩu tư sở biến, kế duy hữu xuất du nhất pháp, tức dĩ sở kiến chi sơn xuyên phong thổ vật sản nhân tình, hoặc đương sang di binh tiển chi dư, hoặc trị hạn lạo tai tẩm chi hậu, vô nhất bất khả ngụ chi thi trung, tá tha nhân chi cùng sầu, dĩ cung ngã chi vịnh thán, tắc thi diệc bất tất đãi cùng nhi hậu công dã.
200. Do giới mà được định, do định mà được huệ(13), gượng gần được với tự nhiên; luyện tinh để hóa khí, luyện khí để hóa thần(14), thanh hư làm sao mà có cặn bã cho được?
由戒得定,由定得慧,勉強漸近自然, 鍊 精 化 氣, 鍊 氣 化 神, 清 虛 有 何 渣 滓 ?
Do giới đắc định, do định đắc huệ, miễn cưỡng tiệm cận tự nhiên, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, thanh hư hữu hà tra chỉ?
Chú thích:
(1) Cốt cách kiêu ngạo
(2) Tấm lòng kiêu ngạo
(3) Tức Bá Di Thúc Tề, hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Chu. Hai ông can Vũ Vương đừng đánh Trụ mà không được,nên sau Vũ Vương tiêu diệt được Trụ, lập nên nhà Chu, hai ông thề suốt đời không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi ở ẩn.
(4) Tức Quản Trọng và Yến Anh, hai vị tể tướng lỗi lạc thời Chiến Quốc, giúp nước Tề lập được nghiệp bá.
(5) Triều đại của vua Thuấn, một ông vua huyền thoại của Trung Quốc, được xem là thời thiên hạ thái bình.
(6) Thuật ngữ Phật giáo chỉ 4 loài tái sinh
óa sinh là loài do y vào nghiệp lực mà hóa sinh, như chư thần; Thai sinh là loài sinh ra từ bào thai, như con người, muông thú; Noãn sinh là loài sinh do ra từ trứng, như gia cầm, chim chóc; Thấp sinh là loài sinh ra từ những nơi ẩm thấp, như các loài vi sinh, phiêu sinh vật…
(7) Dụng cụ đo bóng mặt trời thời cổ để tính thời gian.
(8) Đại hội tài thí và pháp thí của Phật giáo, dành cho mọi tầng lớp chúng sinh, không phân biệt sang hèn, tăng tục, trí ngu (cứ 3 năm tổ chức một lần)
(9) Ba dòng tư tưởng chính trong lịch sử triết hoc Trung Quốc : Nho, Thích, Lão.
(10) Y Doãn (1648 TCN?-1549 TCN?), là vị tể tướng giỏi của nhà Thương; giúp vua Thành Thang phạt vua Kiệt nhà Hạ và lập nhà Thương.
11) Đồng thời với Khổng Tử, nối tiếng thanh khiết, được đời sau xưng là”Thánh chi thanh”
(12) Loại côn trùng cánh trắng như bạc thường ăn giấy trong sách.
(13) Giới luật, thiền định và trí huệ là ba pháp môn tu hành của đạo Phật, gọi là Tam học. Giữ giới luật thì tâm được định, và nhờ định mà phát sinh trí huệ.
(14) Tinh là chất dinh dưỡng hấp thụ từ tinh hoa thức ăn, khí là sức hoạt động của nội tạng, thần là phần linh hoạt biểu hiện sức sống. Quan hệ giữa tinh, khí, thần trong mỗi cơ thể là mấu chốt chủ yếu để duy trì sự sống. Sinh mạng con người bắt đầu từ tinh, sống được là nhờ khí, mà chủ sinh mạng lại là thần. Tinh, khí, thần là ba khái niệm cơ bản trong phép tu tiên của đạo gia, được gọi là Tam bảo.
@ Cop bệt từ Cổ Dã Tử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét