Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012
Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012
Tôi mắc nợ người một đóa môi
Ở chỗ môi cười, tôi hôn em
đóa trà mi nở sau một đêm
ban ơn nhỏ xuống giọt kiêu hãnh
nhặt nhạnh theo tôi những suối nguồn
ở chỗ môi cười, nói hộ em
những điều thầm kín ngỡ rằng quên
là khi cuốn chặt dòng tâm tưởng
đón nhận về nhau giấc mộng thường
có ai vỗ giấc ru tôi ngủ,
bằng những lời ca rất ngọt ngào?
hay ai rót tiếng cười khúc khích
lúc đôi mái đầu kề sát nhau?
ai sẽ nhìn tôi bằng âu yếm
rạng ngời trong những lúc tôi vui?
ở chỗ môi người, tôi mắc nợ
một đóa trà mi nở êm đềm
Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012
Thiên thanh lỗi nhịp
Em rót nắng trên vai trần lặng lẽ
Đường khinh tân áo lụa nối mây ngàn
Một đường bay lồng lộng nắng ban mai
Trời mộng mị rắc đầy hoa thiên điểu
Ở phương này gió lùa qua tóc liễu
Sờ đôi tay mà thương nhớ vô vàn
Hồn cũ mục có chồn chân lữ thứ,
Một chiều thu trong nắng gió thê lương?
Nhưng em ạ không nghĩa là gì cả!
Hồn phiêu du trên trăm cánh lay lay
Ta ngật ngưỡng giữa đường như khách lạ
Chỉ thế thôi mà mong ước vô cùng.
Bởi có lúc muốn dừng đôi chân lại
Trong một lần ta thấy gà gật say
Bàn tay lạ gỡ lần làn tóc rối
Kẻo mai này dâu bể thấy bâng khuâng?
Ta khách lạ với hình hài viễn xứ
Mắt xa mờ nhỏ lệ bến phân vân
Trộm nhìn em trong vóc dáng thiên thần
Ừ! cũng đủ, để hồn đày xa xứ.
Nhưng em ạ bến mộng này tan biệt
Màu thiên thanh lỗi nhịp cũng thôi đành
Đôi vai trần em rót nắng bâng khuâng
Tà áo lụa trắng ngần trong ảo ảnh
Ta lạc lối nên suốt đời bối rối
Nhìn nguyên xuân bằng con mắt xa mù
Đợi em về trong giấc mộng thiên thu
Dệt mộng ước bên lầu đài cổ tích.
Đường khinh tân áo lụa nối mây ngàn
Một đường bay lồng lộng nắng ban mai
Trời mộng mị rắc đầy hoa thiên điểu
Ở phương này gió lùa qua tóc liễu
Sờ đôi tay mà thương nhớ vô vàn
Hồn cũ mục có chồn chân lữ thứ,
Một chiều thu trong nắng gió thê lương?
Nhưng em ạ không nghĩa là gì cả!
Hồn phiêu du trên trăm cánh lay lay
Ta ngật ngưỡng giữa đường như khách lạ
Chỉ thế thôi mà mong ước vô cùng.
Bởi có lúc muốn dừng đôi chân lại
Trong một lần ta thấy gà gật say
Bàn tay lạ gỡ lần làn tóc rối
Kẻo mai này dâu bể thấy bâng khuâng?
Ta khách lạ với hình hài viễn xứ
Mắt xa mờ nhỏ lệ bến phân vân
Trộm nhìn em trong vóc dáng thiên thần
Ừ! cũng đủ, để hồn đày xa xứ.
Nhưng em ạ bến mộng này tan biệt
Màu thiên thanh lỗi nhịp cũng thôi đành
Đôi vai trần em rót nắng bâng khuâng
Tà áo lụa trắng ngần trong ảo ảnh
Ta lạc lối nên suốt đời bối rối
Nhìn nguyên xuân bằng con mắt xa mù
Đợi em về trong giấc mộng thiên thu
Dệt mộng ước bên lầu đài cổ tích.
Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012
Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012
Nghi lễ Mùa Đông
Nơi ấy bây giờ lạnh lắm phải không em?
Nhớ mặc áo cho vừa đủ ấm
Anh xa lắm không thể nào trùm hơi nóng
Chỉ đắp cho em những nỗi nhớ nồng nàn
Nơi ấy bây giờ rất lạnh phải không em?
Đường ra phố có lạc loài chân bước
Lúc bỡ ngỡ đi qua vùng rét mướt
Nghe kinh cầu rụng từng tiếng rất sâu.
Nơi ấy bây giờ vào Đông hả em?
Mười ngón tay phiêu gầy thảng thốt
Xua lơ ngơ lỡ giật mình đánh rớt
Từng dấu cô đơn chạm những phím đàn
Nơi ấy bây giờ buồn không hả em?
Đừng trách mùa Thu hững hờ quá đỗi
Chiếc lá nghiêng nghiêng chiều nào rơi vội
Khiến Đông buồn bật thành tiếng đơn côi!
Nơi ấy bây giờ quá đỗi xa xôi
Muốn gần gũi tay không làm sao với
Nửa hồn anh một phương chấp chới
Như tiếng mưa rơi bạt tận đáy lòng
Nơi ấy bây giờ có gì vui không em?
Anh không thể thấy nét cười e lệ
Chỉ biết lặng thinh cúi chào một nghi lễ
Đừng để mùa đông đạp nát hết mơ màng!
Nơi ấy bây giờ trời đã sang ngang
Khi giáo đường đang rộn ràng kinh thánh
Khi Chúa ngôi hai mang lòng thành xuất hiện
Nghi lễ mùa đông bay lơ lững bán cầu
Chuông nhà thờ cùng bất chợt ngân vang
Nơi góc giáo đường có người thầm ước
Đây ! quả tim con gởi vào vùng rét mướt
Giữ hơi ấm này cho người ấy bớt run run.
09/12/11
Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012
Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012
Từ khi nguyệt tận giữa lòng ba mươi
Thưa em!
Trăng bỏ thơ rồi
Từ khi
Nguyệt
Tận
Giữa lòng ba mươi
Mịt mù giữa phố chợ vui
Tiếng cười pha lẫn
Chút bùi ngùi qua
Dối gian
Che dấu thật thà
Bóng ma lồng lộng
Giữa tòa Tịnh Tâm
Giáo đường rền rỉ chuông ru
Chúa buồn chết gục
Vết thù trần gian
Khổ đau giày xéo mơ màng
Đắng cay bức tử trăm ngàn
Niềm vui
Chợ đời
Trong bữa ba mươi
Bước là dò dẫm
Đi là dấn thân
Văn chương dan díu
Nợ nần…
Trăng bỏ thơ rồi
Từ khi
Nguyệt
Tận
Giữa lòng ba mươi
Mịt mù giữa phố chợ vui
Tiếng cười pha lẫn
Chút bùi ngùi qua
Dối gian
Che dấu thật thà
Bóng ma lồng lộng
Giữa tòa Tịnh Tâm
Giáo đường rền rỉ chuông ru
Chúa buồn chết gục
Vết thù trần gian
Khổ đau giày xéo mơ màng
Đắng cay bức tử trăm ngàn
Niềm vui
Chợ đời
Trong bữa ba mươi
Bước là dò dẫm
Đi là dấn thân
Văn chương dan díu
Nợ nần…
Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012
Phố Nhớ
Ôm nỗi nhớ ta ngồi nghe gió phố
Buồn như trăng mà lãng đãng như trăng
Trên mái ngói bóng chim nào đánh rớt
Một mùa thu thấp thoáng tiếng chim gù
Người tuổi trẻ nghĩ điều gì thế nhỉ?
Những con đường trổ mộng lối hoa xanh
Những khúc quanh hay ngã rẽ
Độc hành
Hay những dòng sông cứ cuộn mình lơ đãng
Hay một sớm mai ánh bình minh hé rạng
Tiếng guốc khua như giục giã đăng trình…
Sao lại nhốt mình trong đáy huyệt lặng thinh?
Chẳng là dòng sông, chẳng là con suối
Miệt mài xuôi về bến mơ xa lắc
Nghe nhịp sóng nào chạm nhẹ đại dương
Lơ đãng dòng sông
Lơ đãng con đường
Lơ đãng mặt trời
Tuổi thơ qua mất…
Quá khứ? Đó là điều có thật!
Tôi lơ đãng mình, tôi lơ đãng tôi
Để sớm mai nào chợt thức trái tim côi
Sực nhớ mình vẫn còn hoài vọng
Phố!!!
Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012
như giọt tàn phai
Tôi còn ở trọ
Trong vũng trần gian
Bàn chân mở lối
Đi qua cội đời
Vết buồn như lá
Bay về mù khơi
Vết sầu như suối
Miên man trượt dài
Vết tình như đá
Rêu phong phủ dày...
Xa bàn tay nhớ
Mười búp măng thon
Nở hoa tuyệt vọng*
Đời tôi trổ sầu
Những lời dối gian
Suốt đời đa mang
Tôi còn ở trọ
Biết về nơi đâu
Xa lìa yêu dấu
Chưa tỏ mặt đời
Em ơi! em ơi!
Đời tôi u tối
Trần gian lạc loài
Lần mò bước đi
Riêng lẻ đời mình.
*"Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng, để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa" . TCS
Trong vũng trần gian
Bàn chân mở lối
Đi qua cội đời
Vết buồn như lá
Bay về mù khơi
Vết sầu như suối
Miên man trượt dài
Vết tình như đá
Rêu phong phủ dày...
Xa bàn tay nhớ
Mười búp măng thon
Nở hoa tuyệt vọng*
Đời tôi trổ sầu
Những lời dối gian
Suốt đời đa mang
Tôi còn ở trọ
Biết về nơi đâu
Xa lìa yêu dấu
Chưa tỏ mặt đời
Em ơi! em ơi!
Đời tôi u tối
Trần gian lạc loài
Lần mò bước đi
Riêng lẻ đời mình.
*"Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng, để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa" . TCS
Lãnh 17/11/12
Cảm ơn lão Cá Gỗ đã chịu khó phổ nhạc bài thơ Như Giọt Tàn Phai của mình. Lời thơ tuy không hay, nhưng nhờ âm nhạc của Nhà Cá như được nâng thêm cánh. Không cần biết hay, dở ra sao. Nhưng đây là một kỷ niệm rất vui và có giá trị tinh thần với mình rất nhiều.
Tks lão Cá nhiều nhiều...hehehehe. ai nớp du Cá Gỗ :D
NHƯ GIỌT TÀN PHAI
Nhạc: Cá Gỗ
Thơ: Lãnh Diện
Tôi còn ở trọ
Trong vũng trần gian
Bàn chân mở lối
Đi qua cội đời
Vết buồn như lá
Bay về mù khơi
Vết sầu như suối
Miên man trượt dài
ĐK
Những lời gian dối
Đời trót đa mang
Bàn chân mở lối
Đi qua cội đời
Xa bàn tay nhớ
Mười búp măng thon
Nở hoa tuyệt vọng
Đời tôi trổ sầu
Ôi đời ngang trái
Tình đã trót trao
Ngậm ngùi đá khóc
Thu phai nghẹn ngào
Vết tình như đá
Phủ kín rêu phong
Từng cơn bão nhớ
Vòng mê lộ sầu
Tôi còn ở trọ
Biết về nơi đâu
Xa lìa yêu dấu
Chưa tỏ mặt đời
Bên đời tuyệt vọng
Lạc lối trần gian
Chân lần mò bước
Lẻ bóng mình tôi.
Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012
từ quên thuở nào
theo em xuống đời
tóc trần bung gió
mười ngón tay ngỏ
cài nụ tình xanh
theo hương suối nguồn
trong từng nhánh cỏ
hạt mầm mong manh
nở hoa trắng ngần
theo trăng trở về
qua cầu soi bóng
lòng còn in nghiêng
miền hư ảnh nào?
theo mưa xuống trần
nhớ về phương ấy
hạt gầy long lanh
vỡ đôi khối sầu
theo chân đêm về
in hằn vết mõi
nghe con dế khóc
tình xa về gần...
tôi dường như đã
quên từng ngón xưa
thời gian thuở trước
nhịp bàn chân đưa
tôi dường như đã
quên mùi tóc em
giấu hương hoa cúc
trong vườn dịu êm
tôi dường như đã
quên trăng mất rồi
từ khi em gối
sầu ngang qua đời.
10/12/2012
giấc mộng vô thường
Em như công chúa trong cổ tích
Vừa ghé đời tôi một sớm nay
Gót hài lay động như làn khói
Thổi cả hồn tôi theo dáng say
Nắng có đong đưa triền lá biếc
Len lõi mầm yêu qua khóm cây
Chỉ là ước lệ ngàn dư ảnh
Một buổi em về trong sớm mai
Tôi hóa đời tôi ngàn giọt sương
Đọng trên mắt lá những vô thường
Chờ mong hội ngộ cùng em đến
Trong buổi tương phùng bao luyến thương
Em là công chúa trong cổ tích
Mây vấn xiêm y chẳng gợn sầu
Bảy đường cung ảnh từ ô thước
Ngập ánh phù kiều vương tóc nâu
Tôi đón em về trong sớm nay
Mùi hương dạ thảo chưa phai nhòa
Nghìn hoa khoe sắc bên trời lạ
Gởi những ân tình theo gió say
Em là công chúa trong cổ tích
Tôi kẻ lãng du giữa đời thường
Nặng vương mùi tục nơi trần thế
Em có buồn không, có buồn không?
Tôi cánh chim di biệt ngút ngàn
Mây trời gió lộng kiếp lang thang
Phù hoa, ảo mộng tựa sương khói
Chỉ có phong trần tôi đa mang
Em như công chúa trong cổ tích
Nên hãy về đi chớ lụy phiền
Nét cười đừng để pha dòng lệ
Cõi tạm trần gian tôi đã từng
Em hãy về đi công chúa ơi!
Nhạc rung réo rắc cõi vô thường
Một giây hạnh ngộ hình như cũng
Ta với người tiên đã ngậm ngùi
04/05/11
Vừa ghé đời tôi một sớm nay
Gót hài lay động như làn khói
Thổi cả hồn tôi theo dáng say
Nắng có đong đưa triền lá biếc
Len lõi mầm yêu qua khóm cây
Chỉ là ước lệ ngàn dư ảnh
Một buổi em về trong sớm mai
Tôi hóa đời tôi ngàn giọt sương
Đọng trên mắt lá những vô thường
Chờ mong hội ngộ cùng em đến
Trong buổi tương phùng bao luyến thương
Em là công chúa trong cổ tích
Mây vấn xiêm y chẳng gợn sầu
Bảy đường cung ảnh từ ô thước
Ngập ánh phù kiều vương tóc nâu
Tôi đón em về trong sớm nay
Mùi hương dạ thảo chưa phai nhòa
Nghìn hoa khoe sắc bên trời lạ
Gởi những ân tình theo gió say
Em là công chúa trong cổ tích
Tôi kẻ lãng du giữa đời thường
Nặng vương mùi tục nơi trần thế
Em có buồn không, có buồn không?
Tôi cánh chim di biệt ngút ngàn
Mây trời gió lộng kiếp lang thang
Phù hoa, ảo mộng tựa sương khói
Chỉ có phong trần tôi đa mang
Em như công chúa trong cổ tích
Nên hãy về đi chớ lụy phiền
Nét cười đừng để pha dòng lệ
Cõi tạm trần gian tôi đã từng
Em hãy về đi công chúa ơi!
Nhạc rung réo rắc cõi vô thường
Một giây hạnh ngộ hình như cũng
Ta với người tiên đã ngậm ngùi
04/05/11
Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012
Ikebana - Nghệ thuật khai thác tâm hồn (phần 2)
Người ta cho rằng nghệ thuật chơi hoa cũng như một cõi phù du, bởi
vì sự sớm nở tối tàn của nó. Nhưng ít ai chịu thông cảm để hiểu rằng nó
cũng như là một môn nghệ thuật vẽ tranh của người họa sĩ. Ở nơi đó người
ta có thể gởi gắm về một đề tài từ thiên nhiên, cây cối hay những màu
sắc được xây dựng từ các loài hoa cỏ, vật dụng xung quanh. Thay vì như
họa sĩ là phát họa và thực hiện bằng những gam màu.
Tôi nhớ lần đầu khi tìm đến với môn này lúc đó chỉ có một ước muốn rất đơn giản. Đó là hiểu về nó để thực hiện những bức tranh tĩnh vật một cách hoàn hảo nhất. Phải nói thời điểm đó tôi rất thích vẽ tranh tĩnh vật. Nhưng thật sự không biết bắt đầu từ đâu, do đó khi tìm đến nghệ thuật cắm hoa cũng đơn giản là chỉ bổ sung thêm kiến thức của mình. Khi bắt đầu hiểu ra cách xây dựng và hình thành của một bình hoa thì tôi lại quên béng đi chuyện mình vẽ tranh, lúc đó lại thấy thay vì tìm các gam màu để thể hiện thì ngay trước mắt, bằng những chất liệu có thật, tôi lại dễ dàng phóng tác cảm xúc mình nhanh hơn.
Chẳng biết việc này là tốt hay xấu. Nhưng cái chính là tôi thu hoạch rất nhiều từ món nghệ thuật này từ sự thay đổi tinh thần và có cả yếu tố vật chất...
Bỏ qua vấn đề này để quay lại với nghệ thuật Ikebana. Không đơn giản là từ những màu sắc, hoa lá...Những cành cây khô vứt đi, những chai lọ, bình gốm sứt mẻ tất cả đều được tận dụng tối ưu để khai thác hết vẻ đẹp tiềm ẩn từ bên trong của nó.
Nhìn vào bức hình này bạn có thể hình dung tại sao nó sức hấp dẫn lạ kì đó.
Từ những rễ cây khô mục nát, tượng trưng cho sự lạnh lẽo vô hồn của quá khứ qua cách sơn phết nâu và trắng để muốn diễn tả sự nhập nhằng của một cảnh tượng u uất. Vẫn đó những bông hoa nở hoa thật lãng mạn, gần giống như sự vô ưu trước thời cuộc. Khi quá khứ và hiện tại đan xen thì sự vươn lên lúc này là cần thiết.
Hay như cách trình bày này trong một góc phòng nào đó, bạn sẽ cảm thấy bớt cô đơn và nó đẹp một cách đằm thắm, trữ tình, cảm giác thấy thiên nhiên đang hòa nhập vào bên trong và cùng tận hưởng.
Đến lúc này thì có thể nói rằng nó không đơn thuần là từ những vật dung hay cành lá...Những đường nét thể hiện của nó đều có mục đích và ý đồ khác nhau. Tạo một cảm giác rất thân thuộc giữa thiên nhiên và con người, mỗi góc cạnh hay điểm nhấn nhá của nó đều mang một thông điệp hay một hàm ý mà ta cần phải khám phá.
Trong thế giới tâm linh người Việt, hoa vẫn mang một giá trị nhất định. Điều này thấy rõ qua các hình thức giỗ kỵ, hoặc những ngày lễ tết. Nhưng nó chỉ xuất hiện trong sự tạm thời chứ chưa được khai thác một cách triệt để như người Nhật. Chính vì vậy người Việt cắm hoa theo kiểu sơ sài và không có mục đích. Nhìn chung cũng là cách cảm thụ, nhưng cách cảm thụ đơn giản, không tận dụng hết những mật ngữ sâu xa kia vì thế nên chẳng còn sự lắng đọng và tinh tế.
Vì thế khi bắt gặp Ikebana vẫn không ít có người chủ quan kêu lên rằng: "Ôi dào! có quái gì mà phải phức tạp". Câu này chỉ đúng ở chỗ "phức tạp", còn "có quái gì" hay không là nằm ở người thâm nhập và khám phá nó. Chúng ta không thể đứng ngoài ngõ mà vội vàng hình dung cả một ngôi nhà. Cho nên cần phải bước vô để thấy được tất cả từ phía bên trong.
Nội lực mạnh mẽ nhất của Ikebana đó là việc lưu lại những cảm xúc bất chợt đâu đó của con người trước thiên nhiên. Từ những cồn lau, bờ cỏ nằm rạp trước cơn gió, cho đến hình ảnh những đóa hoa sen, hoa súng khoe mình trên dòng nước biếc, hoặc những thác nước đổ xuống bên cạnh những tán cây thầm thĩ du dương...tất cả đều được tái hiện lại qua bàn tay tài nghệ của các chuyên gia bậc thầy về Ikebana một cách sống động.
Hoặc đôi lúc có sự mỏng manh nhưng không kém phần kiêu hãnh.
Ở Ikebana có xây dựng hai khía cạnh rất rõ ràng. Đó là niềm vui thuần túy có tính thẩm mỹ đến từ các tác phẩm, và cái còn lại là sự ảnh hưởng sâu sắc một cách huyền bí tác động đến những người bắt đầu tìm hiểu về môn nghệ thuật này.
Cũng giống như hội họa, yếu tố thẩm mỹ luôn đặt lên hàng đầu. Nhưng với lòng bền bỉ kiên trì chúng ta vẫn có một thành công nhất định.
Tôi nhớ lần đầu khi tìm đến với môn này lúc đó chỉ có một ước muốn rất đơn giản. Đó là hiểu về nó để thực hiện những bức tranh tĩnh vật một cách hoàn hảo nhất. Phải nói thời điểm đó tôi rất thích vẽ tranh tĩnh vật. Nhưng thật sự không biết bắt đầu từ đâu, do đó khi tìm đến nghệ thuật cắm hoa cũng đơn giản là chỉ bổ sung thêm kiến thức của mình. Khi bắt đầu hiểu ra cách xây dựng và hình thành của một bình hoa thì tôi lại quên béng đi chuyện mình vẽ tranh, lúc đó lại thấy thay vì tìm các gam màu để thể hiện thì ngay trước mắt, bằng những chất liệu có thật, tôi lại dễ dàng phóng tác cảm xúc mình nhanh hơn.
Chẳng biết việc này là tốt hay xấu. Nhưng cái chính là tôi thu hoạch rất nhiều từ món nghệ thuật này từ sự thay đổi tinh thần và có cả yếu tố vật chất...
Bỏ qua vấn đề này để quay lại với nghệ thuật Ikebana. Không đơn giản là từ những màu sắc, hoa lá...Những cành cây khô vứt đi, những chai lọ, bình gốm sứt mẻ tất cả đều được tận dụng tối ưu để khai thác hết vẻ đẹp tiềm ẩn từ bên trong của nó.
Nhìn vào bức hình này bạn có thể hình dung tại sao nó sức hấp dẫn lạ kì đó.
Từ những rễ cây khô mục nát, tượng trưng cho sự lạnh lẽo vô hồn của quá khứ qua cách sơn phết nâu và trắng để muốn diễn tả sự nhập nhằng của một cảnh tượng u uất. Vẫn đó những bông hoa nở hoa thật lãng mạn, gần giống như sự vô ưu trước thời cuộc. Khi quá khứ và hiện tại đan xen thì sự vươn lên lúc này là cần thiết.
Hay như cách trình bày này trong một góc phòng nào đó, bạn sẽ cảm thấy bớt cô đơn và nó đẹp một cách đằm thắm, trữ tình, cảm giác thấy thiên nhiên đang hòa nhập vào bên trong và cùng tận hưởng.
Đến lúc này thì có thể nói rằng nó không đơn thuần là từ những vật dung hay cành lá...Những đường nét thể hiện của nó đều có mục đích và ý đồ khác nhau. Tạo một cảm giác rất thân thuộc giữa thiên nhiên và con người, mỗi góc cạnh hay điểm nhấn nhá của nó đều mang một thông điệp hay một hàm ý mà ta cần phải khám phá.
Trong thế giới tâm linh người Việt, hoa vẫn mang một giá trị nhất định. Điều này thấy rõ qua các hình thức giỗ kỵ, hoặc những ngày lễ tết. Nhưng nó chỉ xuất hiện trong sự tạm thời chứ chưa được khai thác một cách triệt để như người Nhật. Chính vì vậy người Việt cắm hoa theo kiểu sơ sài và không có mục đích. Nhìn chung cũng là cách cảm thụ, nhưng cách cảm thụ đơn giản, không tận dụng hết những mật ngữ sâu xa kia vì thế nên chẳng còn sự lắng đọng và tinh tế.
Vì thế khi bắt gặp Ikebana vẫn không ít có người chủ quan kêu lên rằng: "Ôi dào! có quái gì mà phải phức tạp". Câu này chỉ đúng ở chỗ "phức tạp", còn "có quái gì" hay không là nằm ở người thâm nhập và khám phá nó. Chúng ta không thể đứng ngoài ngõ mà vội vàng hình dung cả một ngôi nhà. Cho nên cần phải bước vô để thấy được tất cả từ phía bên trong.
Nội lực mạnh mẽ nhất của Ikebana đó là việc lưu lại những cảm xúc bất chợt đâu đó của con người trước thiên nhiên. Từ những cồn lau, bờ cỏ nằm rạp trước cơn gió, cho đến hình ảnh những đóa hoa sen, hoa súng khoe mình trên dòng nước biếc, hoặc những thác nước đổ xuống bên cạnh những tán cây thầm thĩ du dương...tất cả đều được tái hiện lại qua bàn tay tài nghệ của các chuyên gia bậc thầy về Ikebana một cách sống động.
Hoặc đôi lúc có sự mỏng manh nhưng không kém phần kiêu hãnh.
Ở Ikebana có xây dựng hai khía cạnh rất rõ ràng. Đó là niềm vui thuần túy có tính thẩm mỹ đến từ các tác phẩm, và cái còn lại là sự ảnh hưởng sâu sắc một cách huyền bí tác động đến những người bắt đầu tìm hiểu về môn nghệ thuật này.
Cũng giống như hội họa, yếu tố thẩm mỹ luôn đặt lên hàng đầu. Nhưng với lòng bền bỉ kiên trì chúng ta vẫn có một thành công nhất định.
Ikebana - Nghệ thuật khai thác tâm hồn
Lời giới thiệu
Xung quanh chúng ta luôn luôn có những loại cỏ cây hoa lá. Ngay từ thuở xa xưa con người đã biết cách tận dụng nó và biến nó thành một vật trang trí mang nhiều ý nghĩa. Có nhiều cách cảm nhận về các loài hoa khác nhau của từng quốc gia. Nhưng điểm chung vẫn là sự khai thác tối đa ở góc cạnh tâm hồn, nơi của những thứ cảm nhận rất tinh tế và nhạy cảm nhất. Nó như một thứ tôn giáo riêng được hình thành, rất đặc thù và hấp dẫn từ những người yêu thích nó cho đến cả những người chưa hiểu hết về nó vẫn phải trầm trồ thích thú một cách kỳ lạ.
Có lịch sử từ 600 năm trước vào thế kỷ thứ 15. Ikebana là một trong những môn truyền thống của người Nhật để vươn đến cái đẹp của nội tâm con người, nó phảng phất yếu tố tâm linh cũng như mang dáng dấp của một triết thuyết, hay nói cách khác về một quan niệm đó là "sự trống rỗng".
"Sự trống rỗng" mà người Nhật luôn luôn khai thác mang hàm ý là tạo một khoảng không vô tận, nơi mà con người có thể tự do mơ mộng để đưa nghệ thuật sắp đặt hình ảnh lên đến đỉnh điểm của sự thăng hoa.
Rất chú trọng đến việc rèn luyện cơ thể và tâm hồn, cho nên mặc dù mang trong mình dòng máu của Võ Sĩ Đạo, người Nhật vẫn không quên làm giàu nội tâm mình bằng các hình thức rèn luyện các loại hình nghệ thuật khác để tìm thấy sự bình lặng và thanh thản trong những tâm hồn thuần khiết.
Cũng giống như khi cách rèn luyện chữ viết để giúp chúng ta giải phóng được chính mình. Thì nghệ thuật cắm hoa Ikebana đã góp phần cho chúng ta tự giải phóng chúng ta để trở về với lòng kiên nhẫn và sự tĩnh lặng mênh mông.
Ikebana theo tiếng Nhật có nghĩa là "hoa sống". Là một hình thức tái tạo nghệ thuật từ thiên nhiên, cách sắp xếp cũng như vận dụng mọi cỏ cây hoa lá cho đến màu sắc riêng biệt của từng nhóm khác nhau để hình thành nên một ý nghĩa riêng biệt. Những loài hoa hay màu sắc của nó được cắt tỉa một cách uyển chuyển, sống động hay như diễn tả một cách trầm lắng, sâu xa...Tất cả đều là một thứ tình cảm mà con người mong muốn được sẻ chia qua cách trình bày của mình.
Người Phương Đông trong cuộc sống phần lớn đều nghiêng về phía nội tâm, nên khi mở cánh cửa thế giới mới thường hay có thiên hướng đến sự khiêm nhường, trầm tư...Điều này cũng gọi là nét khác biệt giữa Đông và Tây. Đa phần những bình hoa của người phương Tây đều hướng đến sự lộng lẫy và rực rỡ do đó mất đi sự kiên nhẫn vốn cần thiết của sự tĩnh lặng. Sự nóng vội không bao giờ dành cho những người đến với môn nghệ thuật Ikebana. Một người theo đuổi Ibakana giống như một người nghệ sĩ thật thụ, lúc nào cũng phải miệt mài tìm kiếm, học hỏi và hơn hết là luôn luôn sáng tạo, vận dụng tất cả các giác quan của mình để cảm nhận tinh tế và lắng đọng hơn. Cũng giống như các nhà thơ khi đi tìm những ngôn ngữ cho riêng mình, câu chữ là câu chữ chung, hoa cỏ là hoa cỏ chung, cách cảm thụ để mà dàn trải ra đều đến từ sự chắt lọc, kinh nghiệm và tài nghệ của mỗi cá nhân. Làm thế nào để đưa tác phẩm của mình đi đến một kết quả như mong muốn thì ngoài thiên tài ra còn lại đều là sự nổ lực và học hỏi không ngừng. Vì thế ở Nhật Bản người ta phải bỏ ra 12 đến 15 năm mới có thể làm chủ được nền nghệ thuật Ikebana, các người thầy giảng dạy bộ môn này đều có thâm niên từ 30 đến 40 năm trong nghề. Vì quá nóng lòng để nắm bắt nghệ thuật Ikebana là điều thật sự không nên có.
Khi bắt đầu nắm bắt nghệ thuật Ikebana, chúng ta phải biết đến nguyên tắc cấu tạo. Nhưng trước hết phải nắm rõ về các loài thực vật, sự sinh trưởng của nó theo từng mùa. Phải nắm bắt sự đi và đến của từng mùa trong thiên nhiên hoặc những thời khắc chuyển giao của nó mới thấy được hết nét phong phú và độc đáo.
Để làm một cành cây hoặc một bông hoa sống động hơn cũng là cách để làm cho nó có sức sống hơn bao giờ hết. Đó là thành công của một người nghệ sĩ khi tìm được thấy một thứ ánh sáng đến từ thiên nhiên và là một phần thưởng cho riêng mình về cách cảm thụ tinh tế nhất. Bởi lẽ mỗi bông hoa là một vẻ đẹp hiền dịu nhất chúng ta nên mở cánh cửa tâm hồn để cảm nhận cái mong manh và yếu ớt trong từng loại hoa để tái tạo lại nó một sức sống mới theo cảm quan của mình.
Trong nghệ thuật cắm hoa Ikebana. Phương pháp cắm truyền thống và căn bản nhất được bắt buộc theo qui tắc Thiên, Địa , Nhân. Đây là quy tắc chung của nghệ thuật cắm hoa Phương Đông. Những ai từng "nhập môn" cắm hoa nghệ thuật đều trải qua bài học vỡ lòng này. Một công thức căn bản nhất của nghệ thuật cắm hoa, nó rất đơn giản chỉ là một bộ khung để người ta xắp xếp theo một cách có trình tự.
Thiên: được tượng trưng cho Trời (gọi là cành chính thứ nhất). Đây là cành đầu tiên để bắt đầu một cách cắm, nó có thể xoay ở mọi góc cạnh và mọi tư thế khác nhau tùy theo cách thể hiện của người muốn gởi gắm đến với mỗi tác phẩm.
Nhân: được tượng trưng con người (gọi là cành chính thứ 2). Nó có chiều dài bằng 1/2 của Thiên và có thiên hướng nghiên về Thiên. Tức là chủ ý muốn hướng thiên để phô diễn cái ý mình muốn thể hiện.
Địa: được tượng trưng cho Đất (gọi là cành chính thứ 3). Nó có chiều dài bằng 1/2 của Nhân và là có hơi hướng đối nghịch với hai cành kia. Lộ rõ ý đồ làm nền móng cho Thiên và Nhân bức phá.
Nhìn chung là khi xây dựng Thiên, Địa, Nhân là phải dựa trên bố cục tam giác nhằm mục đích khái thác và hình thành một nguyên tắc chung để dễ dàng thực hiện các bước tiếp theo.
Thiên, Địa, Nhân chính là Trời, Đất và con người. Tất cả đều nằm trong cái vũ trụ đó. Gọi là nó bao la thì cũng được, nhưng nếu nói gần gũi thì cũng chẳng sao cả. Có chăng là do cách cảm nhận của mỗi cá nhân. Phải chăng là từ cái qui tắc đơn giản kia, nên Ikebana khi nói đến "sự trống rỗng" là hướng chúng ta đến thế giới đó? Thế giới bao la của sự cảm thụ và khai thác nội tâm.
Nhưng có một sự thật là phần lớn những người "nhập môn" trong lĩnh vực này thường bỏ qua chi tiết sơ đẳng đó. Trên hết là ở họ không cảm thụ hết tầm quan trọng của 3 chữ Thiên, Địạ, Nhân. Chắc bởi họ cho rằng công thức đó nó quá đơn giản, đa phần người học cắm hoa thường chú ý đến những thứ mang tính chất hình thức hoặc cảm nhận ý nghĩa của một tác phẩm một cách hời hợt mà không chịu chiêm nghiệm. Thích thưởng thức hơn là tìm tòi, không đào sâu cái căn nguyên bên trong mà chỉ quan trọng đến các chi tiết lòe loẹt hay vẻ hào nhoáng bên ngoài. Những yếu tố trên khiến người ta mất dần cái căn bản ban đầu, nên đâm ra lúng túng trong cách xây dựng. Điều đó cho thấy ở họ chỉ là những người đi sao chép ý tưởng hoặc những "cái máy cắm hoa" chứ không phải là một người nghệ sĩ thực thụ.
Trong Ikebana thường nhấn mạnh 3 yếu tố đó là: Quá khứ, Hiện tại, Tương lai. 3 yếu tố này chính là thời gian để cảm nhận sự tăng trưởng của từng bông hoa.
Khi nói đến Quá khứ thì bắt buộc người ta phải sử dụng những bông hoa đã nở rộ đến giai đoạn sắp tàn, và những cành cây khô hoặc các loại trái khô để diễn đạt nhằm mục đích tạo ra sự già nua hay một điều gì đã rơi vào quên lãng.
Khi nói đến Hiện tại thì phải dùng các loại hoa đương nở vẫn còn sự sung mãn về xuân sắc hay như các lá cây hoàn hảo không tì vết để diễn đạt cái đang diễn ra trước mắt như là sự thanh tân, tươi trẻ.
Và khi nói đến Tương lai là phải dùng các loại cành tươi mới chớm trổ, hoặc những nụ hoa đang còn e ấp để dẫn đến một sự ấp ủ, chờ đợi sắp sửa được diễn ra.
Ngoài ra yếu tố 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông vẫn không kém phần quan trọng trong việc bài trí một tác phẩm cắm hoa. Có thể hiểu theo cách sau:
Mùa Xuân: Sắp xếp theo dạng đường cong tạo ra sự uyển chuyển để biểu lộ một cách rõ nét về sức sống cũng như sinh lực tiềm ẩn của nó
Mùa Hạ: Bài trí rộng ra, có sức lan tỏa và tràn đầy đa phần dành cho gom màu nóng
Mùa Thu: Bố trí sao cho thưa lại và mỏng manh phù hợp với nét hoài cổ và man mác vốn có của nó
Mùa Đông: Phải có nét trầm mặc và yên tỉnh bố trí theo kiểu lắng đọng.
Và cũng cần phải có khái niệm chung về màu sắc để dễ dàng nhận biết. Thông thường người ta chia làm hai gam màu đó là Nóng và Lạnh.
Màu Nóng bao gồm các màu: Đỏ, vàng, cam
Màu Lạnh gồm có: Trắng, xanh, tím
Riêng màu hồng có thể được coi là màu trung lập
Các màu sắc cũng có một ý nghĩa riêng biệt và phong phú. Người thường quan niệm như sau: Trắng thanh cao, đỏ nhiệt huyết, xanh hy vọng, đen huyền bí, tím thủy chung, vàng rực rỡ hay hồng lãng mạn...Những yếu tố trên cũng như ý nghĩa của từng loài hoa chỉ mang giá trị tương đối, nó chỉ góp phần phong phú và đa tầng trong nghệ thuật cắm hoa.
Cho nên khi nắm bắt được những điều này, không cần phải là người thực hiện những tác phẩm cắm hoa. Đứng ở góc độ một người thưởng thức đơn thuần. Người ta vẫn có thể dễ dàng hình dung cho mình một cảm nhận sâu sắc hơn mang tính chất đồng cảm hơn từ các tác phẩm. Cũng giống như khi ta đọc và bắt đầu thích thú với một bài thơ, có thể giữa người đọc và tác giả có cách cảm thụ một cách khác nhau. Nhưng trên hết là sự cảm nhận và cùng nhau giải phóng cảm xúc thì ít ra nghệ thuật cắm hoa đã phần nào hoàn thành sứ mệnh của nó đó chính là việc khơi gợi và mở ra một thế giới khác từ phía tâm hồn người thưởng lãm.
Trên đây là những lời mở đầu cho nghệ thuật Ikebana, chúng ta sẽ khám phá và tìm hiểu nó từ từ trong những phần kế tiếp.
Xung quanh chúng ta luôn luôn có những loại cỏ cây hoa lá. Ngay từ thuở xa xưa con người đã biết cách tận dụng nó và biến nó thành một vật trang trí mang nhiều ý nghĩa. Có nhiều cách cảm nhận về các loài hoa khác nhau của từng quốc gia. Nhưng điểm chung vẫn là sự khai thác tối đa ở góc cạnh tâm hồn, nơi của những thứ cảm nhận rất tinh tế và nhạy cảm nhất. Nó như một thứ tôn giáo riêng được hình thành, rất đặc thù và hấp dẫn từ những người yêu thích nó cho đến cả những người chưa hiểu hết về nó vẫn phải trầm trồ thích thú một cách kỳ lạ.
Có lịch sử từ 600 năm trước vào thế kỷ thứ 15. Ikebana là một trong những môn truyền thống của người Nhật để vươn đến cái đẹp của nội tâm con người, nó phảng phất yếu tố tâm linh cũng như mang dáng dấp của một triết thuyết, hay nói cách khác về một quan niệm đó là "sự trống rỗng".
"Sự trống rỗng" mà người Nhật luôn luôn khai thác mang hàm ý là tạo một khoảng không vô tận, nơi mà con người có thể tự do mơ mộng để đưa nghệ thuật sắp đặt hình ảnh lên đến đỉnh điểm của sự thăng hoa.
Rất chú trọng đến việc rèn luyện cơ thể và tâm hồn, cho nên mặc dù mang trong mình dòng máu của Võ Sĩ Đạo, người Nhật vẫn không quên làm giàu nội tâm mình bằng các hình thức rèn luyện các loại hình nghệ thuật khác để tìm thấy sự bình lặng và thanh thản trong những tâm hồn thuần khiết.
Cũng giống như khi cách rèn luyện chữ viết để giúp chúng ta giải phóng được chính mình. Thì nghệ thuật cắm hoa Ikebana đã góp phần cho chúng ta tự giải phóng chúng ta để trở về với lòng kiên nhẫn và sự tĩnh lặng mênh mông.
Ikebana theo tiếng Nhật có nghĩa là "hoa sống". Là một hình thức tái tạo nghệ thuật từ thiên nhiên, cách sắp xếp cũng như vận dụng mọi cỏ cây hoa lá cho đến màu sắc riêng biệt của từng nhóm khác nhau để hình thành nên một ý nghĩa riêng biệt. Những loài hoa hay màu sắc của nó được cắt tỉa một cách uyển chuyển, sống động hay như diễn tả một cách trầm lắng, sâu xa...Tất cả đều là một thứ tình cảm mà con người mong muốn được sẻ chia qua cách trình bày của mình.
Người Phương Đông trong cuộc sống phần lớn đều nghiêng về phía nội tâm, nên khi mở cánh cửa thế giới mới thường hay có thiên hướng đến sự khiêm nhường, trầm tư...Điều này cũng gọi là nét khác biệt giữa Đông và Tây. Đa phần những bình hoa của người phương Tây đều hướng đến sự lộng lẫy và rực rỡ do đó mất đi sự kiên nhẫn vốn cần thiết của sự tĩnh lặng. Sự nóng vội không bao giờ dành cho những người đến với môn nghệ thuật Ikebana. Một người theo đuổi Ibakana giống như một người nghệ sĩ thật thụ, lúc nào cũng phải miệt mài tìm kiếm, học hỏi và hơn hết là luôn luôn sáng tạo, vận dụng tất cả các giác quan của mình để cảm nhận tinh tế và lắng đọng hơn. Cũng giống như các nhà thơ khi đi tìm những ngôn ngữ cho riêng mình, câu chữ là câu chữ chung, hoa cỏ là hoa cỏ chung, cách cảm thụ để mà dàn trải ra đều đến từ sự chắt lọc, kinh nghiệm và tài nghệ của mỗi cá nhân. Làm thế nào để đưa tác phẩm của mình đi đến một kết quả như mong muốn thì ngoài thiên tài ra còn lại đều là sự nổ lực và học hỏi không ngừng. Vì thế ở Nhật Bản người ta phải bỏ ra 12 đến 15 năm mới có thể làm chủ được nền nghệ thuật Ikebana, các người thầy giảng dạy bộ môn này đều có thâm niên từ 30 đến 40 năm trong nghề. Vì quá nóng lòng để nắm bắt nghệ thuật Ikebana là điều thật sự không nên có.
Khi bắt đầu nắm bắt nghệ thuật Ikebana, chúng ta phải biết đến nguyên tắc cấu tạo. Nhưng trước hết phải nắm rõ về các loài thực vật, sự sinh trưởng của nó theo từng mùa. Phải nắm bắt sự đi và đến của từng mùa trong thiên nhiên hoặc những thời khắc chuyển giao của nó mới thấy được hết nét phong phú và độc đáo.
Để làm một cành cây hoặc một bông hoa sống động hơn cũng là cách để làm cho nó có sức sống hơn bao giờ hết. Đó là thành công của một người nghệ sĩ khi tìm được thấy một thứ ánh sáng đến từ thiên nhiên và là một phần thưởng cho riêng mình về cách cảm thụ tinh tế nhất. Bởi lẽ mỗi bông hoa là một vẻ đẹp hiền dịu nhất chúng ta nên mở cánh cửa tâm hồn để cảm nhận cái mong manh và yếu ớt trong từng loại hoa để tái tạo lại nó một sức sống mới theo cảm quan của mình.
Trong nghệ thuật cắm hoa Ikebana. Phương pháp cắm truyền thống và căn bản nhất được bắt buộc theo qui tắc Thiên, Địa , Nhân. Đây là quy tắc chung của nghệ thuật cắm hoa Phương Đông. Những ai từng "nhập môn" cắm hoa nghệ thuật đều trải qua bài học vỡ lòng này. Một công thức căn bản nhất của nghệ thuật cắm hoa, nó rất đơn giản chỉ là một bộ khung để người ta xắp xếp theo một cách có trình tự.
Thiên: được tượng trưng cho Trời (gọi là cành chính thứ nhất). Đây là cành đầu tiên để bắt đầu một cách cắm, nó có thể xoay ở mọi góc cạnh và mọi tư thế khác nhau tùy theo cách thể hiện của người muốn gởi gắm đến với mỗi tác phẩm.
Nhân: được tượng trưng con người (gọi là cành chính thứ 2). Nó có chiều dài bằng 1/2 của Thiên và có thiên hướng nghiên về Thiên. Tức là chủ ý muốn hướng thiên để phô diễn cái ý mình muốn thể hiện.
Địa: được tượng trưng cho Đất (gọi là cành chính thứ 3). Nó có chiều dài bằng 1/2 của Nhân và là có hơi hướng đối nghịch với hai cành kia. Lộ rõ ý đồ làm nền móng cho Thiên và Nhân bức phá.
Nhìn chung là khi xây dựng Thiên, Địa, Nhân là phải dựa trên bố cục tam giác nhằm mục đích khái thác và hình thành một nguyên tắc chung để dễ dàng thực hiện các bước tiếp theo.
Thiên, Địa, Nhân chính là Trời, Đất và con người. Tất cả đều nằm trong cái vũ trụ đó. Gọi là nó bao la thì cũng được, nhưng nếu nói gần gũi thì cũng chẳng sao cả. Có chăng là do cách cảm nhận của mỗi cá nhân. Phải chăng là từ cái qui tắc đơn giản kia, nên Ikebana khi nói đến "sự trống rỗng" là hướng chúng ta đến thế giới đó? Thế giới bao la của sự cảm thụ và khai thác nội tâm.
Nhưng có một sự thật là phần lớn những người "nhập môn" trong lĩnh vực này thường bỏ qua chi tiết sơ đẳng đó. Trên hết là ở họ không cảm thụ hết tầm quan trọng của 3 chữ Thiên, Địạ, Nhân. Chắc bởi họ cho rằng công thức đó nó quá đơn giản, đa phần người học cắm hoa thường chú ý đến những thứ mang tính chất hình thức hoặc cảm nhận ý nghĩa của một tác phẩm một cách hời hợt mà không chịu chiêm nghiệm. Thích thưởng thức hơn là tìm tòi, không đào sâu cái căn nguyên bên trong mà chỉ quan trọng đến các chi tiết lòe loẹt hay vẻ hào nhoáng bên ngoài. Những yếu tố trên khiến người ta mất dần cái căn bản ban đầu, nên đâm ra lúng túng trong cách xây dựng. Điều đó cho thấy ở họ chỉ là những người đi sao chép ý tưởng hoặc những "cái máy cắm hoa" chứ không phải là một người nghệ sĩ thực thụ.
Trong Ikebana thường nhấn mạnh 3 yếu tố đó là: Quá khứ, Hiện tại, Tương lai. 3 yếu tố này chính là thời gian để cảm nhận sự tăng trưởng của từng bông hoa.
Khi nói đến Quá khứ thì bắt buộc người ta phải sử dụng những bông hoa đã nở rộ đến giai đoạn sắp tàn, và những cành cây khô hoặc các loại trái khô để diễn đạt nhằm mục đích tạo ra sự già nua hay một điều gì đã rơi vào quên lãng.
Khi nói đến Hiện tại thì phải dùng các loại hoa đương nở vẫn còn sự sung mãn về xuân sắc hay như các lá cây hoàn hảo không tì vết để diễn đạt cái đang diễn ra trước mắt như là sự thanh tân, tươi trẻ.
Và khi nói đến Tương lai là phải dùng các loại cành tươi mới chớm trổ, hoặc những nụ hoa đang còn e ấp để dẫn đến một sự ấp ủ, chờ đợi sắp sửa được diễn ra.
Ngoài ra yếu tố 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông vẫn không kém phần quan trọng trong việc bài trí một tác phẩm cắm hoa. Có thể hiểu theo cách sau:
Mùa Xuân: Sắp xếp theo dạng đường cong tạo ra sự uyển chuyển để biểu lộ một cách rõ nét về sức sống cũng như sinh lực tiềm ẩn của nó
Mùa Hạ: Bài trí rộng ra, có sức lan tỏa và tràn đầy đa phần dành cho gom màu nóng
Mùa Thu: Bố trí sao cho thưa lại và mỏng manh phù hợp với nét hoài cổ và man mác vốn có của nó
Mùa Đông: Phải có nét trầm mặc và yên tỉnh bố trí theo kiểu lắng đọng.
Và cũng cần phải có khái niệm chung về màu sắc để dễ dàng nhận biết. Thông thường người ta chia làm hai gam màu đó là Nóng và Lạnh.
Màu Nóng bao gồm các màu: Đỏ, vàng, cam
Màu Lạnh gồm có: Trắng, xanh, tím
Riêng màu hồng có thể được coi là màu trung lập
Các màu sắc cũng có một ý nghĩa riêng biệt và phong phú. Người thường quan niệm như sau: Trắng thanh cao, đỏ nhiệt huyết, xanh hy vọng, đen huyền bí, tím thủy chung, vàng rực rỡ hay hồng lãng mạn...Những yếu tố trên cũng như ý nghĩa của từng loài hoa chỉ mang giá trị tương đối, nó chỉ góp phần phong phú và đa tầng trong nghệ thuật cắm hoa.
Cho nên khi nắm bắt được những điều này, không cần phải là người thực hiện những tác phẩm cắm hoa. Đứng ở góc độ một người thưởng thức đơn thuần. Người ta vẫn có thể dễ dàng hình dung cho mình một cảm nhận sâu sắc hơn mang tính chất đồng cảm hơn từ các tác phẩm. Cũng giống như khi ta đọc và bắt đầu thích thú với một bài thơ, có thể giữa người đọc và tác giả có cách cảm thụ một cách khác nhau. Nhưng trên hết là sự cảm nhận và cùng nhau giải phóng cảm xúc thì ít ra nghệ thuật cắm hoa đã phần nào hoàn thành sứ mệnh của nó đó chính là việc khơi gợi và mở ra một thế giới khác từ phía tâm hồn người thưởng lãm.
Trên đây là những lời mở đầu cho nghệ thuật Ikebana, chúng ta sẽ khám phá và tìm hiểu nó từ từ trong những phần kế tiếp.
Bài Viết Cho Em
Khắc một nỗi buồn lên trái tim hóa đá
Người đàn bà giấu mặt vào lòng đêm*
Ai sẽ đan tay từng lọn tóc rũ mềm?
Ai sẽ vuốt mắt người đang rưng rức?
Người đàn bà của từng đêm thao thức
Có tiếng hát ru như một tiếng thở dài
Mười ngón tay cài lại khúc du ngân
Có những giọt sầu nào rơi thánh thót
Từ những dòng sông trở về biển khát
Chảy suốt một mùa tìm lại đời nhau
Có chiếc thuyền nào ngược phía vực sâu
Để cánh buồm nghiêng nhìn trời đau đáu
Từ những cơn giông cồn cào xé nát
Rạch một lằn ranh, phân giới cuộc đời...
Người khóc gì? người đàn bà của tôi ơi!
Đêm thủy tinh chực trào lên lòng mắt
Dẫu biết rằng thời gian không thể lại
Mãi tìm mình trong bóng tối hoang sâu
Xin hãy một lần gọi lại tên nhau
Ký ức ngày xưa vẫn về nương náu
Ta ru đêm – xin thôi đừng giông bão
Giấu vào ta từng mảnh vỡ nát nhàu
Em nhớ gì mà sao lại khóc?
Từ nơi bắt đầu ở phía mùa thu
Cánh lá rơi như trò đời sấp, ngược
Nơi không em - tôi lặng lẽ cúi đầu.
Từ những dòng sông trở về biển khát
Chảy suốt một mùa tìm lại đời nhau
Có chiếc thuyền nào ngược phía vực sâu
Để cánh buồm nghiêng nhìn trời đau đáu
Từ những cơn giông cồn cào xé nát
Rạch một lằn ranh, phân giới cuộc đời...
Người khóc gì? người đàn bà của tôi ơi!
Đêm thủy tinh chực trào lên lòng mắt
Dẫu biết rằng thời gian không thể lại
Mãi tìm mình trong bóng tối hoang sâu
Xin hãy một lần gọi lại tên nhau
Ký ức ngày xưa vẫn về nương náu
Ta ru đêm – xin thôi đừng giông bão
Giấu vào ta từng mảnh vỡ nát nhàu
Em nhớ gì mà sao lại khóc?
Từ nơi bắt đầu ở phía mùa thu
Cánh lá rơi như trò đời sấp, ngược
Nơi không em - tôi lặng lẽ cúi đầu.
Sắc vàng hoa
Như thể là một giấc mơ qua
Mùa hoa đó vàng trong kí ức
Có một nỗi nhớ mang tên rất thực
Mà suốt đời anh phải mang theo
Phiên chợ nghèo
Nghèo những gieo neo
Mẹ ngắt cải trong vườn đem bán
Tuổi thơ
Anh
Em
Thuở còn hồn nhiên trong sáng
Chạy theo chân
Lên chợ huyện mỗi ngày
Lá cải còn xanh nên mẹ để dành
Bông cải trổ vàng chẳng ai nhặt lấy
Buổi hôm ấy nắng vàng như ươm cháy
(Sắc hoa vàng hay nắng vàng đây?)
Em bảo anh:
Nhặt hết hoa cải trong vườn đấy
Đem ra đồng ươm lại giấc mơ không?
Anh đứng tần ngần, ngớ ngẩn nhìn trông
Từng bông cải trổ vàng trong ái ngại
Hoa cải chỉ là hoa cải!
Sao thể trồng lại giấc mơ không?
Em lắc đầu
Nhất định là…
Không!
Em sẽ trồng lại hoa để mẹ đem đi bán
Giấc mơ em ươm từ làn hương thoang thoảng
Từ mùi cải nồng lên mắt mẹ hằn cay
Và vườn cải ngồng bắt đầu từ đây
Anh tưới nước, bàn tay em chăm bón
Nhưng mùa nắng lên trong những ngày thiếu thốn
Cháy hoa vàng
Đâu có!
Lá xanh non?
Đôi mắt em buồn nhìn bông cải héo hon
Mà màu nắng chẳng thể nào làm tươi đôi mắt
Anh với em đi
Đôi mái đầu cúi mặt
Giọt mồ hôi cay hay nước mắt ướt nhòe?
Mùa nối sang mùa
Cải vẫn trổ bông
Anh và em
Đi qua cái thời nhặt hoa không kết trái
Giấc mơ em xưa giờ cũng chỉ là xa ngái…
Một hôm
Đứng giữa trời lồng lộng
Nhìn cánh đồng vàng
Anh bất chợt ngóng trông.
17/04/2012
Trương Triều - U Mộng Ảnh ( phần 6)
Phần VI:
151. Loài người thì nữ đẹp hơn nam, loài cầm thì trống đẹp hơn mái, loài thú thì đực cái chẳng phân.
人 則 女 美 于 男, 禽 則 雄 華 于 雌, 獸 則 牝 牡 無 分 者 也。
Nhân tắc nữ mỹ vu nam, cầm tắc hùng hoa vu thư, thú tắc tẫn mẫu vô phân dã.
152. Thiên hạ không có sách thì thôi, đã có tất phải đọc; không có rượu thì thôi, đã có tất phải uống; không có danh sơn thì thôi, đã có tất phải tới chơi; không có hoa có trăng thì thôi, đã có tất phải thưởng ngoạn; không có tài tử giai nhân thì thôi, đã có tất phải mến yêu luyến tiếc.
天 下 無 書 則 已, 有 則 必 當 讀; 無 酒 則 已, 有 則 必 當 飲; 無 名 山 則 已, 有 則 必 當 遊; 無 花 月 則 已, 有 則 必 當 賞 玩; 無 才 子 佳 人 則 已, 有 則 必 當 愛 慕 憐 惜。
Thiên hạ vô thư tắc dĩ, hữu tắc tất đương độc; vô tửu tắc dĩ, hữu tắc tất đương ẩm; vô danh sơn tắc dĩ, hữu tắc tất đương du; vô hoa nguyệt tắc dĩ, hữu tắc tất đương thưởng ngoạn; vô tài tử giai nhân tắc dĩ, hữu tắc tất đương ái mộ lân tích.
153. Trùng mùa thu, chim mùa xuân còn biết hòa thanh uốn lưỡi, cất những tiếng hay; bọn ta trau chuốt bút lông, sao lại cam chịu như quạ kêu trâu rống?
秋 蟲 春 鳥, 尚 能 調 聲 弄 舌,時 吐 好 音。 我 輩 搦 管 拈 毫,豈 可 甘 作 鴉 鳴 牛 喘?
Thu trùng xuân điểu, thượng năng điều thanh lộng thiệt, thời thổ hảo âm. Ngã bối nạch quản niêm hào, khởi khả cam tác nha minh ngưu suyễn!
154. “Công việc trong nhà, nhờ vào trăm điều nhẫn mà sống chung”, ngàn năm đều cho đó là câu nói hay. Đâu hay rằng phải nhẫn đến một trăm điều thì gia đình đó là nơi quá đỗi khắc khe, cách biệt, không dễ gì mà kiếm được người giúp việc.
吾 家 公 藝,恃 百 忍 以 同 居,千 古 傳 為 美 談。殊 不 知 忍 而 至 于 百,則 其 家 庭 乖 戾 睽 隔 之 處,正 未 易 更 僕 數 也。
Ngô gia công nghệ, thị bách nhẫn dĩ đồng cư, thiên cổ truyền vi mỹ đàm. Thù bất tri nhẫn nhi chí vu bách, tắc kỳ gia đình quai lệ khuê cách chi xứ, chánh vị dị cánh bộc số dã.
155. Chín đời sống chung một nhà, thực là thịnh sự. Nhưng còn việc cắt thịt đùi để nuôi cha mẹ hoặc làm lều tranh ở bên mộ cha mẹ để trả hiếu thì chỉ nên coi là việc khó làm chứ không phải là phép tắc, vì nó trái với đạo trung dung.
九 世 同 居, 誠 為 盛 事, 然 止 當 與 割 股 廬 墓 者, 作 一 例 看, 可 以 為 難 矣, 不 可 以 為 法 也, 以 其 非 中 庸 之 道 也。
Cửu thế đồng cư, thành vi thịnh sự, nhiên chỉ đương dữ cát cổ lư mộ giả, tác nhất lệ khan, khả dĩ vi nan hỹ, bất khả dĩ vi pháp dã, dĩ kỳ phi trung dung chi đạo dã.
156. Phép làm văn : ý mà gãy gọn, nên dùng lời đơn giản để miêu tả; lý mà gãy gọn nên dùng ngọn bút gãy gọn để nối liền; đầu đề mà cũ, nên đưa vào ý tưởng tân kỳ; đầu đề mà tầm thường, nên dùng lập luận quan hệ để đào sâu thêm. Còn đến chỗ bế tắc thì giản ra để thêm dài, chỗ rườm rà thì rút gọn để cho ngắn, chỗ quê mùa thì dùng văn vẻ để thêm thanh nhã, chỗ ồn ào thì dùng yên lặng để thu nhiếp, đó đều là phép gia giảm thêm bớt.
作 文 之 法 : 意 之 曲 折 者, 宜 寫 之 以 顯 淺 之 詞 ; 理 之 顯 淺 者, 宜 運 之 以 曲 折 之 筆 ; 題 之 熟 者, 參 之 以 新 奇 之 想 ; 題 之 庸 者, 深 之 以 關 繫 之 論。 至 于 窘 者 舒 之 使 長, 縟 者 刪 之 使 簡, 俚 者 文 之 使 雅, 鬧 者 攝 之 使 靜, 皆 所 謂 裁 制 也。
Tác văn chi pháp : ý chi khúc chiết giả, nghi tả chi dĩ hiển thiển chi từ, lý chi hiển thiển giả, nghi vận chi dĩ khúc chiết chi bút, đề chi thục giả, tham chi dĩ tân kỳ chi tưởng, đề chi dung giả, thâm chi dĩ quan hệ chi luận. Chí vu quẫn giả thư chi sử trường, nhục giả san chi sử giản, lý giả văn chi sử nhã, náo giả nhiếp chi sử tĩnh, giai sở vị tài chế dã.
157. Măng tre là vậy quý trong loài rau, trái vải là vật quý trong loài trái cây, cua là vật quý trong loài thủy tộc, rượu là vật quý trong chuyện ẩm thực, trăng là vậy quý trong thiên văn, Tây Hồ là vật quý trong sơn thủy, từ khúc là vật quý trong văn chương.
筍 為 蔬 中 尤 物, 荔 枝 為 果 中 尤 物, 蟹 為 水 族 中 尤 物, 酒 為 飲 食 中 尤 物, 月 為 天 文 中 尤 物, 西 湖 為 山 水 中 尤 物, 詞 曲 為 文 字 中 尤 物。
Duẩn vi sơ trung vưu vật, lệ chi vi quả trung vưu vật, giải vi thủy tộc trung vưu vật, tửu vi ẩm thực trung vưu vật, nguyệt vi thiên văn trung vưu vật, Tây Hồ vi sơn thủy trung vưu vật, từ khúc vi văn tự trung vưu vật
158. Mua được một chậu hoa đẹp, còn biết nâng niu thương tiếc, huống gì là cánh hoa biết nói!
買 得 一 本 好 花, 猶 且 愛 護 而 憐 惜 之, 矧 其 為 解 語 花 乎 !
Mãi đắc nhất bản hảo hoa, do thư ái lân nhi hộ tích chi, thẩn kỳ vi giải ngữ hoa hồ!
159. Nhìn chân tay diện mạo một người đủ biết người đó nhã hay tục, giao du ra sao.
觀 手 中 便 面, 足 以 知 其 人 之 雅 俗, 足 以 識 其 人 之 交 遊。
Quán thủ trung tiện diện, túc dĩ tri kỳ nhân chi nhã tục, túc dĩ thức kỳ nhân chi giao du.
160. Nước là nơi những thứ nhơ bẩn nhất tập trung về, lửa là chỗ những thứ nhơ bẩn nhất không đến được, nhưng nếu biến cái nhơ bẩn thành cái thanh khiết nhất thì nước và lửa cũng như nhau.
水 為 至 污 之 所 會 歸, 火 為 至 污 之 所 不 到, 若 變 不 潔 為 至 潔, 則 水 火 皆 然。
Thủy vi chí ô chi sở hội quy, hỏa vi chí ô chi sở bất đáo. Nhược biến bất khiết nhi vị chí khiết, tắc thủy hỏa giai nhiên.
161. Có những gương mặt xấu mà dễ coi, có những gương mặt dù không xấu mà vẫn khó coi; văn chương có khi không thông suốt mà vẫn đáng yêu, có khi dù thông suốt mà đọc rất chán. Điều đó không dễ gì nói cho hạng nông cạn hiểu được.
貌 有 醜 而 可 觀 者, 有 雖 不 醜 而 不 足 觀 者 ; 文 有 不 通 而 可 愛 者, 有 雖 通 而 極 可 厭 者。 此 未 易 與 淺 人 道 也。
Mạo hữu xú nhi khả quan giả, hữu tuy bất xú nhi bất túc quan giả; văn hữu bất thông nhi khả ái giả, hữu tuy thông nhi cực khả yếm giả. Thử vị dị dữ tiện nhân đạo dã.
162. Du ngọan sơn thủy cũng phải có duyên. Nếu như cơ duyên chưa đến thì dù có cách vài chục dặm cùng không rỗi mà đến được.
遊 玩 山 水 亦 復 有 緣, 苟 機 緣 未 至, 則 雖 近 在 數 十 里 之 內, 亦 無 暇 到 也。
Du ngoạn sơn thủy, diệc phục hữu duyên. Cẩu cơ duyên vị chí, tắc tuy cận tại sổ thập lý chi nội, diệc vô hạ đáo dã.
163. Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, người xưa cho là hiền. Nghèo mà không kiêu, giàu mà không nịnh, người nay cho là nhỏ. Chừng đó cũng đủ để biết thói đời suy đồi.
貧 而 無 諂, 富 而 無 驕, 古 人 之 所 賢 也 ; 貧 而 無 驕, 富 而 無 諂, 今 人 之 所 少 也。 足 以 知 世 風 之 降 矣。
Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, cổ nhân chi sở hiền dã; bần nhi vô kiêu, phú nhi vô siểm, kim nhân chi sở thiếu dã. Túc dĩ tri thế phong chi giáng hỹ.
164. Người xưa muốn đọc sách mười năm, du ngoạn sơn thủy mười năm, kiểm điểm kinh nghiệm mười năm. Tôi cho rằng kiểm điểm kinh nghiệm không cần phải tới mười năm, chỉ cần hai hay ba năm là đủ. Còn thời gian đọc sách hay du sơn ngoạn thủy cần phải tăng lên, e rằng cũng còn chưa thỏa mãn tâm nguyện. Có lẽ phải nó như Hoàng Cửu Yên tiền bối :”Đời người ắt phải tới ba trăm năm mới đủ chăng?”.
昔 人 欲 以 十 年 讀 書, 十 年 遊 山, 十 年 檢 藏。 予 謂 檢 藏 儘 可 不 必 十 年, 只 二 、 三 載 足 矣, 若 讀 書 與 遊 山, 雖 或 相 倍 蓰, 恐 亦 不 足 以 償 所 願 也, 必 也 如 黃 九 煙 前 輩 之 所 云 : 「 人 生 必 三 百 歲 而 後 可 乎 ! 」
Tích nhân dục dĩ thập niên độc thư, thập niên du sơn, thập niên kiểm tàng. Dữ vị kiểm tàng tận khả bất tất thập niên, chỉ nhị tam tải túc hỹ. Nhược độc thư dữ du sơn, tuy hoặc tương bội tỷ, khủng diệc bất túc dĩ thường sở nguyện dã. Tất dã như Hoàng Cửu Yên tiền bối chi sở vân ”Nhân sinh tất tam bách tuế”, nhi hậu khả hồ!
165. Thà bị kẻ tiểu nhân mắng chửi, chứ không để người quân tử xem khinh; thà để quan giám khảo mù đánh rớt, chứ không để các bậc danh túc không biết đến mình.
寧 為 小 人 之 所 罵, 毋 為 君 子 之 所 鄙 ; 寧 為 盲 主 司 之 所 擯 棄, 毋 為 諸 名 宿 所 不 知。
186. Bóng trong gương và dưới nước là bóng nhận, bóng dưới nắng và trước đèn là bóng cho. Bóng trăng trên trời là bóng cho, còn bóng trăng dưới đất là bóng nhận.
鏡 與 水 之 影, 所 受 者 也 ; 日 與 燈 之 影, 所 施 者 也。 月 之 有 影, 則 在 天 者 為 受, 而 在 地 者 為 施 也。
Kính dữ thủy chi ảnh, sở thụ giả dã, nhật dữ đăng chi ảnh, sở thí giả dã, nguyệt chi hữu ảnh, tắc tại thiên giả vi thụ nhi tại địa giả vi thí dã.
187. Nước có bốn thứ tiếng : có tiếng thác đổ, có tiếng suối reo, có tiếng ghềnh chảy, có tiếng ngòi lạch róc rách; gió có ba thứ tiếng : có tiếng lao xao thổi ngọn thông như sóng dậy, có tiếng xào xạc trong cây cỏ mùa thu, có tiếng thổi sóng vỗ ì ầm; mưa có hai thứ tiếng : có tiếng mưa rơi trên lá ngô đồng, có tiếng rơi trong thùng tre hứng dưới mái hiên.
水 之 為 聲, 有 四 : 有 瀑 布 聲, 有 流 泉 聲, 有 灘 聲, 有 溝 澮 聲。 風 之 為 聲, 有 三 : 有 松 濤 聲, 有 秋 葉 聲, 有 波 浪 聲。 雨 之 為 聲, 有 二 : 有 梧 葉 荷 葉 上 聲, 有 承 簷 溜 竹 筩 中 聲。
Thủy chi vi thanh hữu tứ : hữu bộc bố thanh, hữu lưu tuyền thanh, hữu than thanh, hữu câu hội thanh; phong chi vi thanh hữu tam : hữu tùng đào thanh, hữu thu thảo thanh, hữu ba lãng thanh; vũ chi vi thanh hữu nhị : hữu ngô tiêu hạ diệp thượng thanh, hữu thừa diêm lưu đồng trung thanh.
188. Văn nhân thường chê bai khinh rẻ bọn nhà giàu, nhưng đối với thơ văn hay thì lại dùng toàn vàng ngọc, châu báu, gấm vóc để ca ngợi. Vì sao vậy?
文 人 每 好 鄙 薄 富 人, 然 於 詩 文 之 佳 者, 又 往 往 以 金 玉 、 珠 璣 、 錦 繡 譽 之, 則 又 何 也 ?
Văn nhân mỗi háo bỉ bạc phú nhân, nhiên ư thi văn chi giai giả, hựu vãng vãng dĩ kim ngọc châu cơ cẩm tú dự chi, tắc hựu hà dã?
189. Có thể nhàn nhã về chuyện người đời bận rộn thì mới có thể bận rộn về chuyện người đời nhàn nhã.
能 閒 世 人 之 所 忙 者, 方 能 忙 世 人 之 所 閒。
Năng nhàn thế nhân chi sở mang giả, phương năng mang thế nhân chi sở nhàn.
190. Đọc kinh trước rồi đọc sử sau thì bàn luận mới không sai với ý thánh hiền, đọc sử trước rồi đọc kinh sau thì thấy sách vở chỉ toàn là chương cú.
先 讀 經, 後 讀 史, 則 論 事 不 謬 於 聖 賢 ; 既 讀 史, 復 讀 經, 則 觀 書 不 徒 為 章 句。
Tiên độc kinh, hậu độc sử, tác luận sự bất mậu ư thánh hiền; ký độc sử, hậu độc kinh, tắc quan thư bất đồ vi chương cú.
191. Sống ở thành thị thì lấy tranh vẽ làm sơn thủy, bồn chậu làm vườn cây, lấy sách vở làm bè bạn.
居 城 市 中, 當 以 畫 幅 當 山 水, 以 盆 景 當 苑 囿, 以 書 籍 當 朋 友。
Cư thành thị trung, đương dĩ họa phú đương sơn thủy, dĩ bồn cảnh đương uyển hựu, dĩ thư tịch đương hữu bằng.
192. Sống ở hương thôn cần phải có bạn hiền mới là hay. Nếu là nông dân hay tiều phu thì chỉ biết phân loại ngũ cốc và đoán thời tiết gió mưa, không khỏi mau chán; cho nên nếu trong bạn bè có người biết làm thơ là quý nhất, kế đến là bạn biết nói chuyện, sau đó là bạn biết ca hát, sau cùng là bạn biết uống rượu.
鄉 居 須 得 良 朋 始 佳。 若 田 夫 樵 子, 僅 能 辨 五 穀 而 測 晴 雨, 久 且 數, 未 免 生 厭 矣。 而 友 之 中, 又 當 以 能 詩 為 第 一, 能 談 次 之, 能 畫 次 之, 能 歌 又 次 之, 解 觴 政 者 又 次 之。
Lân cư tu đắc lương bằng thủy giai. Nhược điền phù tiều tử, cận năng biện ngũ cốc nhi trắc tình vũ, cửu thả số, vị miễn sinh yếm hỹ. Nhi hữu chi trung, hựu đương dĩ năng thi vi đệ nhất, năng đàm thứ chi, năng họa thứ chi, năng ca hựu thứ chi, giải trường chính giả hựu thứ chi.
193. Ngọc lan là Bá Di trong loài hoa, hoa quỳ là Y Doãn(10) trong loài hoa, hoa sen là Liễu Hạ Huệ(11) trong loài hoa. Hạc là Bá Di trong loài chim, gà là Y Doãn trong loài chim, chim oanh là Liễu Hạ Huệ trong loài chim.
玉 蘭, 花 中 之 伯 夷 也 ; 葵, 花 中 之 伊 尹 也 ; 蓮, 花 中 之 柳 下 惠 也。 鶴, 鳥 中 之 伯 夷 也 ; 雞, 鳥 中 之 伊 尹 也 ; 鶯, 鳥 中 之 柳 下 惠 也。
Ngọc lan, hoa trung chi Bá Di dã. Quỳ, hoa trung chi Y Doãn dã. Liên, hoa trung Liễu Hạ Huệ dã. Hạc, điểu trung chi Bá Di dã. Kê, điểu trung chi Y Doãn dã. Oanh, điểu trung chi Liễu Hạ Huệ dã.
194. Không có tội nhưng lại mang tiếng ác, đó là con bọ bạc(12); có tội nhưng vẫn tránh được lời chê bai, đó là con nhện.
無 其 罪 而 虛 受 惡 名 者, 蠹 魚 也 ; 有 其 罪 而 恆 逃 清 議 者, 蜘 蛛 也。
Vô kỳ tội nhi khư thụ ố danh giả, đố ngư dã; hữu kỳ tội nhi hằng đào thanh nghị giả, tri thù dã.
195. Hôi nát mà biến thành thần kỳ đó là tương, đậu hủ; còn từ thần kỳ biến lại thành hôi nát ắt các vật này cũng vậy.
臭 腐 化 為 神 奇, 醬 也 、 腐 乳 也 、 金 汁 也 ; 至 神 奇 化 為 臭 腐, 則 是 物 皆 然。
Xú hủ hóa vi thần kỳ, tương dã, hủ nhũ dã, kim trấp dã; chí thần kỳ hóa vi xú hủ, tắc thị vật giai nhiên.
196. Màu đen hòa với mà trắng, màu đen làm hoen màu trắng, mà màu trắng không che nỗi màu đen; mùi thơm trộn lẫn với mùi thối, mùi thối lấn mùi thơm, mà mùi thơm không địch nỗi mùi thối; đó là cái xu thế của quân tử so với tiểu nhân vậy.
黑 與 白 交, 黑 能 污 白, 白 不 能 掩 黑 ; 香 與 臭 混, 臭 能 勝 香, 香 不 能 敵 臭 ; 此 君 子 小 人 相 攻 之 大 勢 也。
Hắc dữ bạch giao, hắc năng ô bạch, bạch bất năng yểm hắc; hương dữ xú hỗn, xú năng thắng hương, hương bất năng địch xú. Thử quân tử tiểu nhân tương công chi đại thế dã.
197. Một chữ”sỉ” (xấu hổ) có thể trị được người quân tử, một chữ”thống” (đau đớn) có thể trị được kẻ tiểu nhân.
「恥」之 一 字,所 以 治 君 子; 「痛」 之 一 字,所 以 治 小 人。
“Sỉ” chi nhất tự, sở dĩ trị quân tử, ”thống” chi nhất tự, sở dĩ trị tiểu nhân.
198. Gương không thể tự soi, cân không thể tự cân, kiếm không thể tự chém.
鏡 不 能 自 照, 衡 不 能 自 權, 劍 不 能 自 擊。
Kính bất năng tự chiếu, hành bất năng tự quyền, kiếm bất năng tự kích.
199. Người xưa: "Thơ tất phải cùng khốn rồi sau mới hay". Bởi cùng khốn thì có nhiều cảm khái, dễ tìm thấy được cái sở trường. Nếu là kẻ phú quý, đã không thể lo khổ than nghèo, lời đàm luận chẳng qua cũng chỉ nói đến trăng gió khói mây, thì thơ làm sao mà hay cho được? Muốn biến đổi thì có một cách là đi du ngoạn, thấy được núi sông phong thổ, sản vật nhân tình, những cảnh lửa binh tang tóc, hoặc cảnh hạn hán thiên tai, chẳng có gì là không thể gởi vào thơ. Đem nỗi sầu bi cùng khốn của người để hỗ trợ cho lời ta thán trong thơ của ta, thì thơ cũng không cần "phải cùng khốn rồi sau mới hay" vậy.
古 人 云 : 「 詩 必 窮 而 後 工。 」 蓋 窮 則 與 多 感 慨, 易 於 見 長 耳。 若 富 貴 中 人, 既 不 可 憂 貧 歎 賤, 所 談 者 不 過 風 雲 月 露 而 已, 詩 安 得 佳 ? 苟 思 所 變, 計 惟 有 出 遊 一 法。即 以 所 見 之 山 川 風 土 物 產 人 情, 或 當 瘡 痍 兵 燹 之 餘, 或 值 旱 潦 災 祲 之 後, 無 一 不 可 寓 之 詩 中。 借 他 人 之 窮 愁, 以 供 我 之 詠 歎, 則 詩 亦 不 必 待 窮 而 後 工 也。
Cổ nhân vân: "Thi tất cùng nhi hậu công". Cái cùng tắc ngữ đa cảm khái, dị ư kiến trường nhĩ. Nhược phú quý trung nhân, ký bất khả ưu bần thán tiện, sở đàm giả bất quá phong vân nguyệt lộ nhi dĩ, thi an đắc giai. Cẩu tư sở biến, kế duy hữu xuất du nhất pháp, tức dĩ sở kiến chi sơn xuyên phong thổ vật sản nhân tình, hoặc đương sang di binh tiển chi dư, hoặc trị hạn lạo tai tẩm chi hậu, vô nhất bất khả ngụ chi thi trung, tá tha nhân chi cùng sầu, dĩ cung ngã chi vịnh thán, tắc thi diệc bất tất đãi cùng nhi hậu công dã.
200. Do giới mà được định, do định mà được huệ(13), gượng gần được với tự nhiên; luyện tinh để hóa khí, luyện khí để hóa thần(14), thanh hư làm sao mà có cặn bã cho được?
由戒得定,由定得慧,勉強漸近自然, 鍊 精 化 氣, 鍊 氣 化 神, 清 虛 有 何 渣 滓 ?
Do giới đắc định, do định đắc huệ, miễn cưỡng tiệm cận tự nhiên, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, thanh hư hữu hà tra chỉ?
Chú thích:
(1) Cốt cách kiêu ngạo
(2) Tấm lòng kiêu ngạo
(3) Tức Bá Di Thúc Tề, hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Chu. Hai ông can Vũ Vương đừng đánh Trụ mà không được,nên sau Vũ Vương tiêu diệt được Trụ, lập nên nhà Chu, hai ông thề suốt đời không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi ở ẩn.
(4) Tức Quản Trọng và Yến Anh, hai vị tể tướng lỗi lạc thời Chiến Quốc, giúp nước Tề lập được nghiệp bá.
(5) Triều đại của vua Thuấn, một ông vua huyền thoại của Trung Quốc, được xem là thời thiên hạ thái bình.
(6) Thuật ngữ Phật giáo chỉ 4 loài tái sinh
óa sinh là loài do y vào nghiệp lực mà hóa sinh, như chư thần; Thai sinh là loài sinh ra từ bào thai, như con người, muông thú; Noãn sinh là loài sinh do ra từ trứng, như gia cầm, chim chóc; Thấp sinh là loài sinh ra từ những nơi ẩm thấp, như các loài vi sinh, phiêu sinh vật…
(7) Dụng cụ đo bóng mặt trời thời cổ để tính thời gian.
(8) Đại hội tài thí và pháp thí của Phật giáo, dành cho mọi tầng lớp chúng sinh, không phân biệt sang hèn, tăng tục, trí ngu (cứ 3 năm tổ chức một lần)
(9) Ba dòng tư tưởng chính trong lịch sử triết hoc Trung Quốc : Nho, Thích, Lão.
(10) Y Doãn (1648 TCN?-1549 TCN?), là vị tể tướng giỏi của nhà Thương; giúp vua Thành Thang phạt vua Kiệt nhà Hạ và lập nhà Thương.
11) Đồng thời với Khổng Tử, nối tiếng thanh khiết, được đời sau xưng là”Thánh chi thanh”
(12) Loại côn trùng cánh trắng như bạc thường ăn giấy trong sách.
(13) Giới luật, thiền định và trí huệ là ba pháp môn tu hành của đạo Phật, gọi là Tam học. Giữ giới luật thì tâm được định, và nhờ định mà phát sinh trí huệ.
(14) Tinh là chất dinh dưỡng hấp thụ từ tinh hoa thức ăn, khí là sức hoạt động của nội tạng, thần là phần linh hoạt biểu hiện sức sống. Quan hệ giữa tinh, khí, thần trong mỗi cơ thể là mấu chốt chủ yếu để duy trì sự sống. Sinh mạng con người bắt đầu từ tinh, sống được là nhờ khí, mà chủ sinh mạng lại là thần. Tinh, khí, thần là ba khái niệm cơ bản trong phép tu tiên của đạo gia, được gọi là Tam bảo.
@ Cop bệt từ Cổ Dã Tử.
151. Loài người thì nữ đẹp hơn nam, loài cầm thì trống đẹp hơn mái, loài thú thì đực cái chẳng phân.
人 則 女 美 于 男, 禽 則 雄 華 于 雌, 獸 則 牝 牡 無 分 者 也。
Nhân tắc nữ mỹ vu nam, cầm tắc hùng hoa vu thư, thú tắc tẫn mẫu vô phân dã.
152. Thiên hạ không có sách thì thôi, đã có tất phải đọc; không có rượu thì thôi, đã có tất phải uống; không có danh sơn thì thôi, đã có tất phải tới chơi; không có hoa có trăng thì thôi, đã có tất phải thưởng ngoạn; không có tài tử giai nhân thì thôi, đã có tất phải mến yêu luyến tiếc.
天 下 無 書 則 已, 有 則 必 當 讀; 無 酒 則 已, 有 則 必 當 飲; 無 名 山 則 已, 有 則 必 當 遊; 無 花 月 則 已, 有 則 必 當 賞 玩; 無 才 子 佳 人 則 已, 有 則 必 當 愛 慕 憐 惜。
Thiên hạ vô thư tắc dĩ, hữu tắc tất đương độc; vô tửu tắc dĩ, hữu tắc tất đương ẩm; vô danh sơn tắc dĩ, hữu tắc tất đương du; vô hoa nguyệt tắc dĩ, hữu tắc tất đương thưởng ngoạn; vô tài tử giai nhân tắc dĩ, hữu tắc tất đương ái mộ lân tích.
153. Trùng mùa thu, chim mùa xuân còn biết hòa thanh uốn lưỡi, cất những tiếng hay; bọn ta trau chuốt bút lông, sao lại cam chịu như quạ kêu trâu rống?
秋 蟲 春 鳥, 尚 能 調 聲 弄 舌,時 吐 好 音。 我 輩 搦 管 拈 毫,豈 可 甘 作 鴉 鳴 牛 喘?
Thu trùng xuân điểu, thượng năng điều thanh lộng thiệt, thời thổ hảo âm. Ngã bối nạch quản niêm hào, khởi khả cam tác nha minh ngưu suyễn!
154. “Công việc trong nhà, nhờ vào trăm điều nhẫn mà sống chung”, ngàn năm đều cho đó là câu nói hay. Đâu hay rằng phải nhẫn đến một trăm điều thì gia đình đó là nơi quá đỗi khắc khe, cách biệt, không dễ gì mà kiếm được người giúp việc.
吾 家 公 藝,恃 百 忍 以 同 居,千 古 傳 為 美 談。殊 不 知 忍 而 至 于 百,則 其 家 庭 乖 戾 睽 隔 之 處,正 未 易 更 僕 數 也。
Ngô gia công nghệ, thị bách nhẫn dĩ đồng cư, thiên cổ truyền vi mỹ đàm. Thù bất tri nhẫn nhi chí vu bách, tắc kỳ gia đình quai lệ khuê cách chi xứ, chánh vị dị cánh bộc số dã.
155. Chín đời sống chung một nhà, thực là thịnh sự. Nhưng còn việc cắt thịt đùi để nuôi cha mẹ hoặc làm lều tranh ở bên mộ cha mẹ để trả hiếu thì chỉ nên coi là việc khó làm chứ không phải là phép tắc, vì nó trái với đạo trung dung.
九 世 同 居, 誠 為 盛 事, 然 止 當 與 割 股 廬 墓 者, 作 一 例 看, 可 以 為 難 矣, 不 可 以 為 法 也, 以 其 非 中 庸 之 道 也。
Cửu thế đồng cư, thành vi thịnh sự, nhiên chỉ đương dữ cát cổ lư mộ giả, tác nhất lệ khan, khả dĩ vi nan hỹ, bất khả dĩ vi pháp dã, dĩ kỳ phi trung dung chi đạo dã.
156. Phép làm văn : ý mà gãy gọn, nên dùng lời đơn giản để miêu tả; lý mà gãy gọn nên dùng ngọn bút gãy gọn để nối liền; đầu đề mà cũ, nên đưa vào ý tưởng tân kỳ; đầu đề mà tầm thường, nên dùng lập luận quan hệ để đào sâu thêm. Còn đến chỗ bế tắc thì giản ra để thêm dài, chỗ rườm rà thì rút gọn để cho ngắn, chỗ quê mùa thì dùng văn vẻ để thêm thanh nhã, chỗ ồn ào thì dùng yên lặng để thu nhiếp, đó đều là phép gia giảm thêm bớt.
作 文 之 法 : 意 之 曲 折 者, 宜 寫 之 以 顯 淺 之 詞 ; 理 之 顯 淺 者, 宜 運 之 以 曲 折 之 筆 ; 題 之 熟 者, 參 之 以 新 奇 之 想 ; 題 之 庸 者, 深 之 以 關 繫 之 論。 至 于 窘 者 舒 之 使 長, 縟 者 刪 之 使 簡, 俚 者 文 之 使 雅, 鬧 者 攝 之 使 靜, 皆 所 謂 裁 制 也。
Tác văn chi pháp : ý chi khúc chiết giả, nghi tả chi dĩ hiển thiển chi từ, lý chi hiển thiển giả, nghi vận chi dĩ khúc chiết chi bút, đề chi thục giả, tham chi dĩ tân kỳ chi tưởng, đề chi dung giả, thâm chi dĩ quan hệ chi luận. Chí vu quẫn giả thư chi sử trường, nhục giả san chi sử giản, lý giả văn chi sử nhã, náo giả nhiếp chi sử tĩnh, giai sở vị tài chế dã.
157. Măng tre là vậy quý trong loài rau, trái vải là vật quý trong loài trái cây, cua là vật quý trong loài thủy tộc, rượu là vật quý trong chuyện ẩm thực, trăng là vậy quý trong thiên văn, Tây Hồ là vật quý trong sơn thủy, từ khúc là vật quý trong văn chương.
筍 為 蔬 中 尤 物, 荔 枝 為 果 中 尤 物, 蟹 為 水 族 中 尤 物, 酒 為 飲 食 中 尤 物, 月 為 天 文 中 尤 物, 西 湖 為 山 水 中 尤 物, 詞 曲 為 文 字 中 尤 物。
Duẩn vi sơ trung vưu vật, lệ chi vi quả trung vưu vật, giải vi thủy tộc trung vưu vật, tửu vi ẩm thực trung vưu vật, nguyệt vi thiên văn trung vưu vật, Tây Hồ vi sơn thủy trung vưu vật, từ khúc vi văn tự trung vưu vật
158. Mua được một chậu hoa đẹp, còn biết nâng niu thương tiếc, huống gì là cánh hoa biết nói!
買 得 一 本 好 花, 猶 且 愛 護 而 憐 惜 之, 矧 其 為 解 語 花 乎 !
Mãi đắc nhất bản hảo hoa, do thư ái lân nhi hộ tích chi, thẩn kỳ vi giải ngữ hoa hồ!
159. Nhìn chân tay diện mạo một người đủ biết người đó nhã hay tục, giao du ra sao.
觀 手 中 便 面, 足 以 知 其 人 之 雅 俗, 足 以 識 其 人 之 交 遊。
Quán thủ trung tiện diện, túc dĩ tri kỳ nhân chi nhã tục, túc dĩ thức kỳ nhân chi giao du.
160. Nước là nơi những thứ nhơ bẩn nhất tập trung về, lửa là chỗ những thứ nhơ bẩn nhất không đến được, nhưng nếu biến cái nhơ bẩn thành cái thanh khiết nhất thì nước và lửa cũng như nhau.
水 為 至 污 之 所 會 歸, 火 為 至 污 之 所 不 到, 若 變 不 潔 為 至 潔, 則 水 火 皆 然。
Thủy vi chí ô chi sở hội quy, hỏa vi chí ô chi sở bất đáo. Nhược biến bất khiết nhi vị chí khiết, tắc thủy hỏa giai nhiên.
161. Có những gương mặt xấu mà dễ coi, có những gương mặt dù không xấu mà vẫn khó coi; văn chương có khi không thông suốt mà vẫn đáng yêu, có khi dù thông suốt mà đọc rất chán. Điều đó không dễ gì nói cho hạng nông cạn hiểu được.
貌 有 醜 而 可 觀 者, 有 雖 不 醜 而 不 足 觀 者 ; 文 有 不 通 而 可 愛 者, 有 雖 通 而 極 可 厭 者。 此 未 易 與 淺 人 道 也。
Mạo hữu xú nhi khả quan giả, hữu tuy bất xú nhi bất túc quan giả; văn hữu bất thông nhi khả ái giả, hữu tuy thông nhi cực khả yếm giả. Thử vị dị dữ tiện nhân đạo dã.
162. Du ngọan sơn thủy cũng phải có duyên. Nếu như cơ duyên chưa đến thì dù có cách vài chục dặm cùng không rỗi mà đến được.
遊 玩 山 水 亦 復 有 緣, 苟 機 緣 未 至, 則 雖 近 在 數 十 里 之 內, 亦 無 暇 到 也。
Du ngoạn sơn thủy, diệc phục hữu duyên. Cẩu cơ duyên vị chí, tắc tuy cận tại sổ thập lý chi nội, diệc vô hạ đáo dã.
163. Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, người xưa cho là hiền. Nghèo mà không kiêu, giàu mà không nịnh, người nay cho là nhỏ. Chừng đó cũng đủ để biết thói đời suy đồi.
貧 而 無 諂, 富 而 無 驕, 古 人 之 所 賢 也 ; 貧 而 無 驕, 富 而 無 諂, 今 人 之 所 少 也。 足 以 知 世 風 之 降 矣。
Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, cổ nhân chi sở hiền dã; bần nhi vô kiêu, phú nhi vô siểm, kim nhân chi sở thiếu dã. Túc dĩ tri thế phong chi giáng hỹ.
164. Người xưa muốn đọc sách mười năm, du ngoạn sơn thủy mười năm, kiểm điểm kinh nghiệm mười năm. Tôi cho rằng kiểm điểm kinh nghiệm không cần phải tới mười năm, chỉ cần hai hay ba năm là đủ. Còn thời gian đọc sách hay du sơn ngoạn thủy cần phải tăng lên, e rằng cũng còn chưa thỏa mãn tâm nguyện. Có lẽ phải nó như Hoàng Cửu Yên tiền bối :”Đời người ắt phải tới ba trăm năm mới đủ chăng?”.
昔 人 欲 以 十 年 讀 書, 十 年 遊 山, 十 年 檢 藏。 予 謂 檢 藏 儘 可 不 必 十 年, 只 二 、 三 載 足 矣, 若 讀 書 與 遊 山, 雖 或 相 倍 蓰, 恐 亦 不 足 以 償 所 願 也, 必 也 如 黃 九 煙 前 輩 之 所 云 : 「 人 生 必 三 百 歲 而 後 可 乎 ! 」
Tích nhân dục dĩ thập niên độc thư, thập niên du sơn, thập niên kiểm tàng. Dữ vị kiểm tàng tận khả bất tất thập niên, chỉ nhị tam tải túc hỹ. Nhược độc thư dữ du sơn, tuy hoặc tương bội tỷ, khủng diệc bất túc dĩ thường sở nguyện dã. Tất dã như Hoàng Cửu Yên tiền bối chi sở vân ”Nhân sinh tất tam bách tuế”, nhi hậu khả hồ!
165. Thà bị kẻ tiểu nhân mắng chửi, chứ không để người quân tử xem khinh; thà để quan giám khảo mù đánh rớt, chứ không để các bậc danh túc không biết đến mình.
寧 為 小 人 之 所 罵, 毋 為 君 子 之 所 鄙 ; 寧 為 盲 主 司 之 所 擯 棄, 毋 為 諸 名 宿 所 不 知。
Ninh vi tiểu nhân chi sở mạ, vô vi quân tử chi sở bỉ, ninh vi manh chủ ty chi sở
tẫn khí, vô vi chư danh túc chi sở bất tri.
166. Ngạo cốt(1) không nên thiếu , mà ngạo
tâm(2) thì không nên có; không có ngạo cốt thì gần với bọn người thô bỉ, mang
ngạo tâm thì không thể làm bậc quân tử được.
傲 骨 不 可 無, 傲 心 不 可 有 ; 無 傲 骨 則 近 於 鄙 夫, 有 傲 心 不 得 為 君 子。
Ngạo cốt bất khả vô, ngạo tâm bất khả hữu. Vô ngạo cốt tắc cận ư bỉ phu, hữu ngạo tâm bất đắc vi quân tử.
167. Con ve là Di Tề(3) trong loài trùng, con ong là Quản Yến(4) trong loài trùng.
蟬 為 蟲 中 之 夷 齊, 蜂 為 蟲 中 之 管 晏。
Thiền vi trùng trung chi Di Tề, phong vi trùng trung chi Quản Yến.
168. Nào ”si ngốc”, nào ”ngu dốt”, nào ”vụng về”, nào ”cuồng điên” đều là những chữ không tốt đẹp, nhưng người ta đều vui vì cái đó; nào ”gian trá”, nào ”quỷ quyệt”, nào ”gượng gạo”, nào ”nịnh hót” đều ngược lại, nhưng người ta lại không thấy vui vì cái đó; cớ sao vậy?
曰 「 癡 」 、 曰 「 愚 」 、 曰 「 拙 」 、 曰 「 狂 」, 皆 非 好 字 面, 而 人 每 樂 居 之 ; 曰 「 奸 」 、 曰 「 黠 」 、 曰 「 強 」 、 曰 「 佞 」 反 是, 而 人 每 不 樂 居 之。何 也?
Viết ”Si”, viết ”Ngu”, viết ”Chuyết”, viết ”Cuồng”, giai phi hảo tự diện, nhi nhân mỗi lạc cư chi, viết ”Gian”, viết ”Hiệt”, viết ”Cưỡng”, viết ”Nịnh” phản thị, nhi nhân mỗi bất lạc cư chi. Hà dã?
169. Thời Đường Ngu(5), âm nhạc có thể làm cảm động đến cả cầm thú, bởi vì là đó là cầm thú thời Đường Ngu, nên mới cảm động. Nếu là cầm thú đời sau chắc gì đã được vậy?
唐 虞 之 際, 音 樂 可 感 鳥 獸, 此 蓋 唐 虞 之 鳥 獸, 故 可 感 耳。 若 後 世 之 鳥 獸, 恐 未 必 然。
Đường Ngu chi tế, âm nhạc khả cảm điểu thú, thử cái Đường Ngu chi điểu thú, cố khả cảm nhĩ. Nhược hậu thế chi điểu thú, khủng vị tất nhiên.
170. Đau chịu được chứ ngứa không chịu được; đắng chịu nỗi chứ cay không chịu nỗi.
痛 可 忍, 而 癢 不 可 忍 ; 苦 可 耐, 而 酸 不 可 耐。
Thống khả nhẫn, nhi dưỡng bất khả nhẫn, khổ khả nại, nhi toan bất khả nại.
171. Bóng trong gương làm rõ hình sắc nhân vật, bóng dưới trăng tả được ý tứ nhân vật. Bóng trong gương như bức họa rõ từng nét vẽ, bóng dưới trăng như bức họa không xương. Bóng sông núi trong vừng trăng là địa lý trong thiên văn, hình tượng trăng sao trên sông nước là thiên văn trong địa lý.
鏡 中 之 影, 著 色 人 物 也 ; 月 下 之 影, 寫 意 人 物 也 ; 鏡 中 之 影, 鉤 邊 畫 也 ; 月 下 之 影, 沒 骨 畫 也 ; 月 中 山 河 之 影, 天 文 中 地 理 也 ; 水 中 星 月 之 象,地 理 中 天 文 也。
Kính trung chi ảnh, trước sắc nhân vật dã, nguyệt hạ chi ảnh, tả ý nhân vật dã. Kính trung chi ảnh, câu biên họa dã, nguyệt hạ chi ảnh, một cốt họa dã. Nguyệt trung sơn hà chi ảnh, thiên văn trung địa lý dã; thủy trung tinh nguyệt chi tượng, địa lý trung thiên văn dã.
172. Có đọc được cuốn sách không chữ mới có những câu nói kinh nhân; có thông được những điều khó hiểu mới tham ngộ thiền cơ tối thượng.
能 讀 無 字 之 書 方 可 得 驚 人 妙 句 ; 能 會 難 通 之 解,方 可 參 最 上 禪 機。
Năng độc vô tự chi thư phương khả đắc kinh nhân diệu cú, năng hội nan thông chi giải phương khả tham tối thượng thiền cơ.
173. Nếu không có thơ rượu thì sơn thủy cũng chỉ là vẻ đẹp suông, không có giai nhân thì trăng hoa cũng chỉ bày ra cho uổng phí.
若 無 詩 酒, 則 山 水 為 具 文 ; 若 無 佳 麗, 則 花 月 皆 虛 設。
Nhược vô thi tửu, tắc sơn thủy vi cụ văn; nhược vô giai lệ, tắc hoa nguyệt giai hư thiết.
174. Tài tử mà lại xinh đẹp, giai nhân mà lại biết làm thơ văn thì không thể nào thọ được. Không phải chỉ vì Tạo vật đố kỵ, mà còn vì hạng người đó không chỉ là vật báu một thời mà là vật báu của vạn đời, cho nên không thể lưu lại lâu trên cõi thế mà hóa ra nhàm.
才 子 而 美 姿 容, 佳 人 而 工 著 作, 斷 不 能 永 年 者。 匪 獨 為 造 物 之 所 忌, 蓋 此 種 原 不 獨 為 一 時 之 寶, 乃 古 今 萬 世 之 寶, 故 不 欲 久 留 人 世, 以 取 褻 耳。
Tài tử nhi mỹ tư dung, giai nhân nhi công trước tác, đoạn bất năng vĩnh niên giả. Phỉ độc vị tạo vật chi sở kỵ, cái thử chủng nguyên bất độc vi nhất thời chi bảo, nãi cổ kim vạn thế chi bảo, cố bất dục cửu lưu nhân thế, dĩ thủ tiết nhĩ.
175. Nghiên mực của người nhàn nhã cố nhiên cần phải đẹp, nhưng nghiên mực của người bận rộn lại càng không thể không đẹp được. Vợ lẽ để vui tình cố nhiên là phải đẹp, nhưng vợ lẽ để sinh con nối dõi cũng không thể không đẹp được.
閒 人 之 硯, 固 欲 其 佳, 而 忙 人 之 硯, 尤 不 可 不 佳 ; 娛 情 之 妾, 固 欲 其 美, 而 廣 嗣 之 妾, 亦 不 可 不 美。
Nhàn nhân chi nghiễn cố dục kỳ giai, nhi mang nhân chi nghiễn vưu bất khả bất giai; ngu tình chi thiếp cố dục kỳ mỹ, nhi quảng tự chi thiếp diệc bất khả bất mỹ.
176. Thế nào là tự vui một mình? Đó là gãy đàn cầm. Thế nào là cùng vui với một người? Đó là đánh cờ. Thế nào là cùng vui với nhiều người? Đó là đánh bài.
如 何 是 獨 樂 樂 ? 曰 鼓 琴 ; 如 何 是 與 人 樂 樂 ? 曰 弈 棋 ; 如 何 是 與 眾 樂 樂 ? 曰 馬 弔。
Như hà thị độc lạc lạc? Viết cổ cầm. Như hà thị dữ nhân lạc lạc? Viết dịch kỳ. Như hà thị dữ chúng lạc lạc? Viết mã điếu.
177. Không đợi dạy đã biết thiện biết ác, đó là thai sinh; phải đợi dạy rồi mới biết biết thiện biết ác, đó là noãn sinh; nhân ngẫu nhiên cảm xúc một sự việc mà biết thiện biết ác, đó là thấp sinh; phân rõ rạch ròi sau trước, không phải duyên cớ một ngày, đó là hóa sinh(6).
不 待 教 而 為 善 為 惡 者, 胎 生 也 ; 必 待 教 而 後 為 善 為 惡 者, 卵 生 也 ; 偶 因 一 事 之 感 觸, 而 突 然 為 善 為 惡 者, 濕 生 也 ; 前 後 判 若 兩 截, 究 非 一 日 之 故 者,化 生 也。
Bất đãi giáo nhi vi thiện vi ác giả, thai sinh dã; tất đãi giáo nhi hậu vi thiện vi ác giả, noãn sinh dã; ngẫu nhân nhất sự chi cảm xúc, nhi đột nhiên vi thiện vi ác giả, thấp sinh dã; tiền hậu phán nhược lượng tiệt, cứu phi nhất nhật chi cố giả, hóa sinh dã.
178. Phàm vật đều dùng hình thể, nếu dùng đến tinh thần ắt chỉ có kính, phù ấn, nhật quỹ(7) và kim nam châm.
凡 物 皆 以 形 用, 其 以 神 用 者, 則 鏡 也, 符 印 也, 日 晷 也, 指 南 針 也。
Phàm vật giai dĩ hình dụng; kỳ dĩ thần dụng giả tắc kính dã, phù ấn dã, nhật quỹ dã, chỉ nam châm dã.
179. Tài tử gặp tài tử đều có lòng mến tài; mỹ nhân gặp mỹ nhân đều có ý ganh sắc. Tôi nguyện kiếp sau thác sinh làm tuyệt đại giai nhân, làm ngược lại chuyện đó mới là khoan khoái.
才 子 遇 才 子, 每 有 憐 才 之 心 ; 美 人 遇 美 人, 必 無 惜 美 之 意。 我 願 來 世 托 生 為 絕 代 佳 人, 一 反 其 局 而 後 快。
Tài tử ngộ tài tử, mỗi hữu lân tài chi tâm; mỹ nhân ngộ mỹ nhân, tất vô tích mỹ chi ý. Ngã nguyện lai thế thác sinh vi tuyệt đại giai nhân, nhất phiên kỳ cục nhi hậu khoái.
180. Tôi thường muốn lập Vô già đại hội(8) để xét hết tài tử giai nhân của mọi thời. Chờ đến khi gặp được cao tăng chân chính thì thì mới nên làm.
予 嘗 欲 建 一 無 遮 大 會, 一 祭 歷 代 才 子, 一 祭 歷 代 佳 人。 俟 遇 有 真 正 高 僧, 即 當 為 之。
Dư thường dục kiển nhất Vô Già đại hội, nhất sát lịch đại tài tử, nhất sát lịch đại giai nhân. Sĩ ngộ hữu chân chính cao tăng, tức đương vi chi.
181. Thánh hiền là những bậc hóa thân của trời đất.
聖 賢 者,天 地 之 替 身。
Thánh hiền giả, thiên địa chi thế thân
182. Điều mà Trời dễ làm nhất là chỉ nên sinh bậc nhân đức, quân tử, kẻ có tài đức, chỉ cần hai ba chục người là đủ. Vua một người, tướng quốc một người, tể tướng một người, rồi đến các bậc thống chế phủ quân.
天 極 不 難 做, 只 須 生 仁 人 、 君 子 、 有 才 德 者, 二 、 三 十 人 足 矣。 君 一 、 相 一 、 冢 宰 一, 及 諸 路 總 制 撫 軍 是 也。
Thiên cực bất nan tố, chỉ tu sinh nhân nhân, quân tử, hữu tài đức giả, nhị, tam thập nhân túc hỹ! Quân nhất, tướng nhất, trũng tể nhất, cập chư lộ tổng chế phủ quân thị dã.
183. Cảnh lên xuống trong chốn quan trường, điều quan trọng là đạo đức, điều cần tránh là hối lộ. Sao tên mới đăng vào danh sách quan, mà đã làm ngược ngay rồi?
擲 陞 官 圖, 所 重 在 德, 所 忌 在 贓。 何 一 登 仕 版, 輒 與 之 相 反 耶 ?
Trịch thăng quan đồ, sở trọng tại đức, sở kỵ tại tang. Hà nhất đăng sĩ bản, triếp dữ chi tương phản da?
184. Trong động vật có tam giáo(9): các loài giao, long, lân, phượng gần với đạo Nho; các loài vượn, cáo, hạc, nai gần với đạo Tiên; các loài sư tử, trâu bò gần với đạo Phật. Trong thực vật cũng có tam giáo : các loài trúc, ngô đồng, lan huệ gần với đạo Nho; các loài bàn đào, quế già gần với đạo Tiên; hoa sen, cây nho gần với đạo Phật.
動 物 中 有 三 教 焉 : 蛟 龍 麟 鳳 之 屬, 近 於 儒 者 也 ; 猿 狐 鶴 鹿 之 屬, 近 於 仙 者 也 ; 獅 子 牯 牛 之 屬, 近 於 釋 者 也。 植 物 中 有 三 教 焉 : 竹 梧 蘭 蕙 之 屬, 近 於 儒 者 也 ; 蟠 桃 老 桂 之 屬, 近 於 仙 者 也 ; 蓮 花 薝 蔔 之 屬, 近 於 釋 者 也。
Động vật trung hữu tam giáo yên : giao long lân phụng chi thuộc, cận ư Nho giả dã, viên hồ hạc lộc chi thuộc, cận ư Tiên giả dã, sư tử cổ ngưu chi thuộc, cận ư Thích giả dã. Trí vật trung hữu tam giáo yên, trúc ngô lan huệ chi thuộc, cận ư Nho giả dã, bàn đào lão quế chi thuộc, cận ư Tiên giả dã, liên hoa bồ đào chi thuộc, cận ư Thích giả dã.
185. Phật nói :”Mặt trời mặt trăng ở bên hông núi Tu Di.” Nếu quả vậy thì mặt trời mặt trăng phải đi vòng quanh quả núi Tu Di mới phải, vì nếu có mọc lặn thì sẽ vướng vào đỉnh núi mất. Lại nói : “Trên mặt đất có ao A Nậu Đạt, nước chảy bốn bề, chảy vào Ấn Độ.” Lại nói : “Dưới địa luân là thủy luân, dưới thủy luân là phong luân, dưới phong luân là không luân ”. Tôi cho rằng đây chỉ là hình ảnh ví dụ về thân thể con người. Núi Tu Di dụ cho đầu người, mặt trời mặt trăng dụ cho hai mắt, ao nước chảy bốn bề dụ cho mạch máu lưu động, địa luân dụ cho thân thể, nước chỉ các chất dịch, gió chỉ hơi thở, ngoài ra chẳng có gì khác.
佛 氏 云 : 「 日 月 在 須 彌 山 腰。 」 果 爾, 則 日 月 必 是 遶 山 橫 行 而 後 可, 苟 有 升 有 降, 必 為 山 巔 所 礙 矣。 又 云 : 「 地 上 有 阿 耨 達 池, 其 水 四 出, 流 入 諸 印 度。 」 又 云 : 「 地 輪 之 下 為 水 輪, 水 輪 之 下 為 風 輪, 風 輪 之 下 為 空 輪。 」 余 謂 此 皆 喻 言 人 身 也, 須 彌 山 喻 人 首, 日 月 喻 兩 目, 池 水 四 出 喻 血 脈 流 動, 地 輪 喻 此 身, 水 為 便 溺, 風 為 洩 氣, 此 下 則 無 物 矣。
Phật thị vân :”Nhật nguyệt tại Tu Di sơn yêu.”Quả nhĩ, tắc nhật nguyệt tất thị nhiễu sơn hoành hành nhi hậu khả, cẩu hữu thăng hữu giáng, tất vi sơn điên sở ngại hỹ. Hựu vân: ”Địa thượng hữu A Nậu Đạt trì, kỳ thủy tứ xuất, lưu nhập chư Ấn Độ.” Hựu vân: ”Địa luân chi hạ vị thủy luân, thủy luân chi hạ vị phong luân, phong luân chi hạ vị không luân.” Dư vị thử giai dụ ngôn nhân thân dã : Tu Di sơn dụ nhân thủ, nhật nguyệt dụ lượng mục, trì thủy tứ xuất dụ huyết mạch lưu thông, địa luân dụ thử thân, thủy vị tiện nịch, phong vị duệ khí. Thử hạ tắc vô vật hỹ.
傲 骨 不 可 無, 傲 心 不 可 有 ; 無 傲 骨 則 近 於 鄙 夫, 有 傲 心 不 得 為 君 子。
Ngạo cốt bất khả vô, ngạo tâm bất khả hữu. Vô ngạo cốt tắc cận ư bỉ phu, hữu ngạo tâm bất đắc vi quân tử.
167. Con ve là Di Tề(3) trong loài trùng, con ong là Quản Yến(4) trong loài trùng.
蟬 為 蟲 中 之 夷 齊, 蜂 為 蟲 中 之 管 晏。
Thiền vi trùng trung chi Di Tề, phong vi trùng trung chi Quản Yến.
168. Nào ”si ngốc”, nào ”ngu dốt”, nào ”vụng về”, nào ”cuồng điên” đều là những chữ không tốt đẹp, nhưng người ta đều vui vì cái đó; nào ”gian trá”, nào ”quỷ quyệt”, nào ”gượng gạo”, nào ”nịnh hót” đều ngược lại, nhưng người ta lại không thấy vui vì cái đó; cớ sao vậy?
曰 「 癡 」 、 曰 「 愚 」 、 曰 「 拙 」 、 曰 「 狂 」, 皆 非 好 字 面, 而 人 每 樂 居 之 ; 曰 「 奸 」 、 曰 「 黠 」 、 曰 「 強 」 、 曰 「 佞 」 反 是, 而 人 每 不 樂 居 之。何 也?
Viết ”Si”, viết ”Ngu”, viết ”Chuyết”, viết ”Cuồng”, giai phi hảo tự diện, nhi nhân mỗi lạc cư chi, viết ”Gian”, viết ”Hiệt”, viết ”Cưỡng”, viết ”Nịnh” phản thị, nhi nhân mỗi bất lạc cư chi. Hà dã?
169. Thời Đường Ngu(5), âm nhạc có thể làm cảm động đến cả cầm thú, bởi vì là đó là cầm thú thời Đường Ngu, nên mới cảm động. Nếu là cầm thú đời sau chắc gì đã được vậy?
唐 虞 之 際, 音 樂 可 感 鳥 獸, 此 蓋 唐 虞 之 鳥 獸, 故 可 感 耳。 若 後 世 之 鳥 獸, 恐 未 必 然。
Đường Ngu chi tế, âm nhạc khả cảm điểu thú, thử cái Đường Ngu chi điểu thú, cố khả cảm nhĩ. Nhược hậu thế chi điểu thú, khủng vị tất nhiên.
170. Đau chịu được chứ ngứa không chịu được; đắng chịu nỗi chứ cay không chịu nỗi.
痛 可 忍, 而 癢 不 可 忍 ; 苦 可 耐, 而 酸 不 可 耐。
Thống khả nhẫn, nhi dưỡng bất khả nhẫn, khổ khả nại, nhi toan bất khả nại.
171. Bóng trong gương làm rõ hình sắc nhân vật, bóng dưới trăng tả được ý tứ nhân vật. Bóng trong gương như bức họa rõ từng nét vẽ, bóng dưới trăng như bức họa không xương. Bóng sông núi trong vừng trăng là địa lý trong thiên văn, hình tượng trăng sao trên sông nước là thiên văn trong địa lý.
鏡 中 之 影, 著 色 人 物 也 ; 月 下 之 影, 寫 意 人 物 也 ; 鏡 中 之 影, 鉤 邊 畫 也 ; 月 下 之 影, 沒 骨 畫 也 ; 月 中 山 河 之 影, 天 文 中 地 理 也 ; 水 中 星 月 之 象,地 理 中 天 文 也。
Kính trung chi ảnh, trước sắc nhân vật dã, nguyệt hạ chi ảnh, tả ý nhân vật dã. Kính trung chi ảnh, câu biên họa dã, nguyệt hạ chi ảnh, một cốt họa dã. Nguyệt trung sơn hà chi ảnh, thiên văn trung địa lý dã; thủy trung tinh nguyệt chi tượng, địa lý trung thiên văn dã.
172. Có đọc được cuốn sách không chữ mới có những câu nói kinh nhân; có thông được những điều khó hiểu mới tham ngộ thiền cơ tối thượng.
能 讀 無 字 之 書 方 可 得 驚 人 妙 句 ; 能 會 難 通 之 解,方 可 參 最 上 禪 機。
Năng độc vô tự chi thư phương khả đắc kinh nhân diệu cú, năng hội nan thông chi giải phương khả tham tối thượng thiền cơ.
173. Nếu không có thơ rượu thì sơn thủy cũng chỉ là vẻ đẹp suông, không có giai nhân thì trăng hoa cũng chỉ bày ra cho uổng phí.
若 無 詩 酒, 則 山 水 為 具 文 ; 若 無 佳 麗, 則 花 月 皆 虛 設。
Nhược vô thi tửu, tắc sơn thủy vi cụ văn; nhược vô giai lệ, tắc hoa nguyệt giai hư thiết.
174. Tài tử mà lại xinh đẹp, giai nhân mà lại biết làm thơ văn thì không thể nào thọ được. Không phải chỉ vì Tạo vật đố kỵ, mà còn vì hạng người đó không chỉ là vật báu một thời mà là vật báu của vạn đời, cho nên không thể lưu lại lâu trên cõi thế mà hóa ra nhàm.
才 子 而 美 姿 容, 佳 人 而 工 著 作, 斷 不 能 永 年 者。 匪 獨 為 造 物 之 所 忌, 蓋 此 種 原 不 獨 為 一 時 之 寶, 乃 古 今 萬 世 之 寶, 故 不 欲 久 留 人 世, 以 取 褻 耳。
Tài tử nhi mỹ tư dung, giai nhân nhi công trước tác, đoạn bất năng vĩnh niên giả. Phỉ độc vị tạo vật chi sở kỵ, cái thử chủng nguyên bất độc vi nhất thời chi bảo, nãi cổ kim vạn thế chi bảo, cố bất dục cửu lưu nhân thế, dĩ thủ tiết nhĩ.
175. Nghiên mực của người nhàn nhã cố nhiên cần phải đẹp, nhưng nghiên mực của người bận rộn lại càng không thể không đẹp được. Vợ lẽ để vui tình cố nhiên là phải đẹp, nhưng vợ lẽ để sinh con nối dõi cũng không thể không đẹp được.
閒 人 之 硯, 固 欲 其 佳, 而 忙 人 之 硯, 尤 不 可 不 佳 ; 娛 情 之 妾, 固 欲 其 美, 而 廣 嗣 之 妾, 亦 不 可 不 美。
Nhàn nhân chi nghiễn cố dục kỳ giai, nhi mang nhân chi nghiễn vưu bất khả bất giai; ngu tình chi thiếp cố dục kỳ mỹ, nhi quảng tự chi thiếp diệc bất khả bất mỹ.
176. Thế nào là tự vui một mình? Đó là gãy đàn cầm. Thế nào là cùng vui với một người? Đó là đánh cờ. Thế nào là cùng vui với nhiều người? Đó là đánh bài.
如 何 是 獨 樂 樂 ? 曰 鼓 琴 ; 如 何 是 與 人 樂 樂 ? 曰 弈 棋 ; 如 何 是 與 眾 樂 樂 ? 曰 馬 弔。
Như hà thị độc lạc lạc? Viết cổ cầm. Như hà thị dữ nhân lạc lạc? Viết dịch kỳ. Như hà thị dữ chúng lạc lạc? Viết mã điếu.
177. Không đợi dạy đã biết thiện biết ác, đó là thai sinh; phải đợi dạy rồi mới biết biết thiện biết ác, đó là noãn sinh; nhân ngẫu nhiên cảm xúc một sự việc mà biết thiện biết ác, đó là thấp sinh; phân rõ rạch ròi sau trước, không phải duyên cớ một ngày, đó là hóa sinh(6).
不 待 教 而 為 善 為 惡 者, 胎 生 也 ; 必 待 教 而 後 為 善 為 惡 者, 卵 生 也 ; 偶 因 一 事 之 感 觸, 而 突 然 為 善 為 惡 者, 濕 生 也 ; 前 後 判 若 兩 截, 究 非 一 日 之 故 者,化 生 也。
Bất đãi giáo nhi vi thiện vi ác giả, thai sinh dã; tất đãi giáo nhi hậu vi thiện vi ác giả, noãn sinh dã; ngẫu nhân nhất sự chi cảm xúc, nhi đột nhiên vi thiện vi ác giả, thấp sinh dã; tiền hậu phán nhược lượng tiệt, cứu phi nhất nhật chi cố giả, hóa sinh dã.
178. Phàm vật đều dùng hình thể, nếu dùng đến tinh thần ắt chỉ có kính, phù ấn, nhật quỹ(7) và kim nam châm.
凡 物 皆 以 形 用, 其 以 神 用 者, 則 鏡 也, 符 印 也, 日 晷 也, 指 南 針 也。
Phàm vật giai dĩ hình dụng; kỳ dĩ thần dụng giả tắc kính dã, phù ấn dã, nhật quỹ dã, chỉ nam châm dã.
179. Tài tử gặp tài tử đều có lòng mến tài; mỹ nhân gặp mỹ nhân đều có ý ganh sắc. Tôi nguyện kiếp sau thác sinh làm tuyệt đại giai nhân, làm ngược lại chuyện đó mới là khoan khoái.
才 子 遇 才 子, 每 有 憐 才 之 心 ; 美 人 遇 美 人, 必 無 惜 美 之 意。 我 願 來 世 托 生 為 絕 代 佳 人, 一 反 其 局 而 後 快。
Tài tử ngộ tài tử, mỗi hữu lân tài chi tâm; mỹ nhân ngộ mỹ nhân, tất vô tích mỹ chi ý. Ngã nguyện lai thế thác sinh vi tuyệt đại giai nhân, nhất phiên kỳ cục nhi hậu khoái.
180. Tôi thường muốn lập Vô già đại hội(8) để xét hết tài tử giai nhân của mọi thời. Chờ đến khi gặp được cao tăng chân chính thì thì mới nên làm.
予 嘗 欲 建 一 無 遮 大 會, 一 祭 歷 代 才 子, 一 祭 歷 代 佳 人。 俟 遇 有 真 正 高 僧, 即 當 為 之。
Dư thường dục kiển nhất Vô Già đại hội, nhất sát lịch đại tài tử, nhất sát lịch đại giai nhân. Sĩ ngộ hữu chân chính cao tăng, tức đương vi chi.
181. Thánh hiền là những bậc hóa thân của trời đất.
聖 賢 者,天 地 之 替 身。
Thánh hiền giả, thiên địa chi thế thân
182. Điều mà Trời dễ làm nhất là chỉ nên sinh bậc nhân đức, quân tử, kẻ có tài đức, chỉ cần hai ba chục người là đủ. Vua một người, tướng quốc một người, tể tướng một người, rồi đến các bậc thống chế phủ quân.
天 極 不 難 做, 只 須 生 仁 人 、 君 子 、 有 才 德 者, 二 、 三 十 人 足 矣。 君 一 、 相 一 、 冢 宰 一, 及 諸 路 總 制 撫 軍 是 也。
Thiên cực bất nan tố, chỉ tu sinh nhân nhân, quân tử, hữu tài đức giả, nhị, tam thập nhân túc hỹ! Quân nhất, tướng nhất, trũng tể nhất, cập chư lộ tổng chế phủ quân thị dã.
183. Cảnh lên xuống trong chốn quan trường, điều quan trọng là đạo đức, điều cần tránh là hối lộ. Sao tên mới đăng vào danh sách quan, mà đã làm ngược ngay rồi?
擲 陞 官 圖, 所 重 在 德, 所 忌 在 贓。 何 一 登 仕 版, 輒 與 之 相 反 耶 ?
Trịch thăng quan đồ, sở trọng tại đức, sở kỵ tại tang. Hà nhất đăng sĩ bản, triếp dữ chi tương phản da?
184. Trong động vật có tam giáo(9): các loài giao, long, lân, phượng gần với đạo Nho; các loài vượn, cáo, hạc, nai gần với đạo Tiên; các loài sư tử, trâu bò gần với đạo Phật. Trong thực vật cũng có tam giáo : các loài trúc, ngô đồng, lan huệ gần với đạo Nho; các loài bàn đào, quế già gần với đạo Tiên; hoa sen, cây nho gần với đạo Phật.
動 物 中 有 三 教 焉 : 蛟 龍 麟 鳳 之 屬, 近 於 儒 者 也 ; 猿 狐 鶴 鹿 之 屬, 近 於 仙 者 也 ; 獅 子 牯 牛 之 屬, 近 於 釋 者 也。 植 物 中 有 三 教 焉 : 竹 梧 蘭 蕙 之 屬, 近 於 儒 者 也 ; 蟠 桃 老 桂 之 屬, 近 於 仙 者 也 ; 蓮 花 薝 蔔 之 屬, 近 於 釋 者 也。
Động vật trung hữu tam giáo yên : giao long lân phụng chi thuộc, cận ư Nho giả dã, viên hồ hạc lộc chi thuộc, cận ư Tiên giả dã, sư tử cổ ngưu chi thuộc, cận ư Thích giả dã. Trí vật trung hữu tam giáo yên, trúc ngô lan huệ chi thuộc, cận ư Nho giả dã, bàn đào lão quế chi thuộc, cận ư Tiên giả dã, liên hoa bồ đào chi thuộc, cận ư Thích giả dã.
185. Phật nói :”Mặt trời mặt trăng ở bên hông núi Tu Di.” Nếu quả vậy thì mặt trời mặt trăng phải đi vòng quanh quả núi Tu Di mới phải, vì nếu có mọc lặn thì sẽ vướng vào đỉnh núi mất. Lại nói : “Trên mặt đất có ao A Nậu Đạt, nước chảy bốn bề, chảy vào Ấn Độ.” Lại nói : “Dưới địa luân là thủy luân, dưới thủy luân là phong luân, dưới phong luân là không luân ”. Tôi cho rằng đây chỉ là hình ảnh ví dụ về thân thể con người. Núi Tu Di dụ cho đầu người, mặt trời mặt trăng dụ cho hai mắt, ao nước chảy bốn bề dụ cho mạch máu lưu động, địa luân dụ cho thân thể, nước chỉ các chất dịch, gió chỉ hơi thở, ngoài ra chẳng có gì khác.
佛 氏 云 : 「 日 月 在 須 彌 山 腰。 」 果 爾, 則 日 月 必 是 遶 山 橫 行 而 後 可, 苟 有 升 有 降, 必 為 山 巔 所 礙 矣。 又 云 : 「 地 上 有 阿 耨 達 池, 其 水 四 出, 流 入 諸 印 度。 」 又 云 : 「 地 輪 之 下 為 水 輪, 水 輪 之 下 為 風 輪, 風 輪 之 下 為 空 輪。 」 余 謂 此 皆 喻 言 人 身 也, 須 彌 山 喻 人 首, 日 月 喻 兩 目, 池 水 四 出 喻 血 脈 流 動, 地 輪 喻 此 身, 水 為 便 溺, 風 為 洩 氣, 此 下 則 無 物 矣。
Phật thị vân :”Nhật nguyệt tại Tu Di sơn yêu.”Quả nhĩ, tắc nhật nguyệt tất thị nhiễu sơn hoành hành nhi hậu khả, cẩu hữu thăng hữu giáng, tất vi sơn điên sở ngại hỹ. Hựu vân: ”Địa thượng hữu A Nậu Đạt trì, kỳ thủy tứ xuất, lưu nhập chư Ấn Độ.” Hựu vân: ”Địa luân chi hạ vị thủy luân, thủy luân chi hạ vị phong luân, phong luân chi hạ vị không luân.” Dư vị thử giai dụ ngôn nhân thân dã : Tu Di sơn dụ nhân thủ, nhật nguyệt dụ lượng mục, trì thủy tứ xuất dụ huyết mạch lưu thông, địa luân dụ thử thân, thủy vị tiện nịch, phong vị duệ khí. Thử hạ tắc vô vật hỹ.
186. Bóng trong gương và dưới nước là bóng nhận, bóng dưới nắng và trước đèn là bóng cho. Bóng trăng trên trời là bóng cho, còn bóng trăng dưới đất là bóng nhận.
鏡 與 水 之 影, 所 受 者 也 ; 日 與 燈 之 影, 所 施 者 也。 月 之 有 影, 則 在 天 者 為 受, 而 在 地 者 為 施 也。
Kính dữ thủy chi ảnh, sở thụ giả dã, nhật dữ đăng chi ảnh, sở thí giả dã, nguyệt chi hữu ảnh, tắc tại thiên giả vi thụ nhi tại địa giả vi thí dã.
187. Nước có bốn thứ tiếng : có tiếng thác đổ, có tiếng suối reo, có tiếng ghềnh chảy, có tiếng ngòi lạch róc rách; gió có ba thứ tiếng : có tiếng lao xao thổi ngọn thông như sóng dậy, có tiếng xào xạc trong cây cỏ mùa thu, có tiếng thổi sóng vỗ ì ầm; mưa có hai thứ tiếng : có tiếng mưa rơi trên lá ngô đồng, có tiếng rơi trong thùng tre hứng dưới mái hiên.
水 之 為 聲, 有 四 : 有 瀑 布 聲, 有 流 泉 聲, 有 灘 聲, 有 溝 澮 聲。 風 之 為 聲, 有 三 : 有 松 濤 聲, 有 秋 葉 聲, 有 波 浪 聲。 雨 之 為 聲, 有 二 : 有 梧 葉 荷 葉 上 聲, 有 承 簷 溜 竹 筩 中 聲。
Thủy chi vi thanh hữu tứ : hữu bộc bố thanh, hữu lưu tuyền thanh, hữu than thanh, hữu câu hội thanh; phong chi vi thanh hữu tam : hữu tùng đào thanh, hữu thu thảo thanh, hữu ba lãng thanh; vũ chi vi thanh hữu nhị : hữu ngô tiêu hạ diệp thượng thanh, hữu thừa diêm lưu đồng trung thanh.
188. Văn nhân thường chê bai khinh rẻ bọn nhà giàu, nhưng đối với thơ văn hay thì lại dùng toàn vàng ngọc, châu báu, gấm vóc để ca ngợi. Vì sao vậy?
文 人 每 好 鄙 薄 富 人, 然 於 詩 文 之 佳 者, 又 往 往 以 金 玉 、 珠 璣 、 錦 繡 譽 之, 則 又 何 也 ?
Văn nhân mỗi háo bỉ bạc phú nhân, nhiên ư thi văn chi giai giả, hựu vãng vãng dĩ kim ngọc châu cơ cẩm tú dự chi, tắc hựu hà dã?
189. Có thể nhàn nhã về chuyện người đời bận rộn thì mới có thể bận rộn về chuyện người đời nhàn nhã.
能 閒 世 人 之 所 忙 者, 方 能 忙 世 人 之 所 閒。
Năng nhàn thế nhân chi sở mang giả, phương năng mang thế nhân chi sở nhàn.
190. Đọc kinh trước rồi đọc sử sau thì bàn luận mới không sai với ý thánh hiền, đọc sử trước rồi đọc kinh sau thì thấy sách vở chỉ toàn là chương cú.
先 讀 經, 後 讀 史, 則 論 事 不 謬 於 聖 賢 ; 既 讀 史, 復 讀 經, 則 觀 書 不 徒 為 章 句。
Tiên độc kinh, hậu độc sử, tác luận sự bất mậu ư thánh hiền; ký độc sử, hậu độc kinh, tắc quan thư bất đồ vi chương cú.
191. Sống ở thành thị thì lấy tranh vẽ làm sơn thủy, bồn chậu làm vườn cây, lấy sách vở làm bè bạn.
居 城 市 中, 當 以 畫 幅 當 山 水, 以 盆 景 當 苑 囿, 以 書 籍 當 朋 友。
Cư thành thị trung, đương dĩ họa phú đương sơn thủy, dĩ bồn cảnh đương uyển hựu, dĩ thư tịch đương hữu bằng.
192. Sống ở hương thôn cần phải có bạn hiền mới là hay. Nếu là nông dân hay tiều phu thì chỉ biết phân loại ngũ cốc và đoán thời tiết gió mưa, không khỏi mau chán; cho nên nếu trong bạn bè có người biết làm thơ là quý nhất, kế đến là bạn biết nói chuyện, sau đó là bạn biết ca hát, sau cùng là bạn biết uống rượu.
鄉 居 須 得 良 朋 始 佳。 若 田 夫 樵 子, 僅 能 辨 五 穀 而 測 晴 雨, 久 且 數, 未 免 生 厭 矣。 而 友 之 中, 又 當 以 能 詩 為 第 一, 能 談 次 之, 能 畫 次 之, 能 歌 又 次 之, 解 觴 政 者 又 次 之。
Lân cư tu đắc lương bằng thủy giai. Nhược điền phù tiều tử, cận năng biện ngũ cốc nhi trắc tình vũ, cửu thả số, vị miễn sinh yếm hỹ. Nhi hữu chi trung, hựu đương dĩ năng thi vi đệ nhất, năng đàm thứ chi, năng họa thứ chi, năng ca hựu thứ chi, giải trường chính giả hựu thứ chi.
193. Ngọc lan là Bá Di trong loài hoa, hoa quỳ là Y Doãn(10) trong loài hoa, hoa sen là Liễu Hạ Huệ(11) trong loài hoa. Hạc là Bá Di trong loài chim, gà là Y Doãn trong loài chim, chim oanh là Liễu Hạ Huệ trong loài chim.
玉 蘭, 花 中 之 伯 夷 也 ; 葵, 花 中 之 伊 尹 也 ; 蓮, 花 中 之 柳 下 惠 也。 鶴, 鳥 中 之 伯 夷 也 ; 雞, 鳥 中 之 伊 尹 也 ; 鶯, 鳥 中 之 柳 下 惠 也。
Ngọc lan, hoa trung chi Bá Di dã. Quỳ, hoa trung chi Y Doãn dã. Liên, hoa trung Liễu Hạ Huệ dã. Hạc, điểu trung chi Bá Di dã. Kê, điểu trung chi Y Doãn dã. Oanh, điểu trung chi Liễu Hạ Huệ dã.
194. Không có tội nhưng lại mang tiếng ác, đó là con bọ bạc(12); có tội nhưng vẫn tránh được lời chê bai, đó là con nhện.
無 其 罪 而 虛 受 惡 名 者, 蠹 魚 也 ; 有 其 罪 而 恆 逃 清 議 者, 蜘 蛛 也。
Vô kỳ tội nhi khư thụ ố danh giả, đố ngư dã; hữu kỳ tội nhi hằng đào thanh nghị giả, tri thù dã.
195. Hôi nát mà biến thành thần kỳ đó là tương, đậu hủ; còn từ thần kỳ biến lại thành hôi nát ắt các vật này cũng vậy.
臭 腐 化 為 神 奇, 醬 也 、 腐 乳 也 、 金 汁 也 ; 至 神 奇 化 為 臭 腐, 則 是 物 皆 然。
Xú hủ hóa vi thần kỳ, tương dã, hủ nhũ dã, kim trấp dã; chí thần kỳ hóa vi xú hủ, tắc thị vật giai nhiên.
196. Màu đen hòa với mà trắng, màu đen làm hoen màu trắng, mà màu trắng không che nỗi màu đen; mùi thơm trộn lẫn với mùi thối, mùi thối lấn mùi thơm, mà mùi thơm không địch nỗi mùi thối; đó là cái xu thế của quân tử so với tiểu nhân vậy.
黑 與 白 交, 黑 能 污 白, 白 不 能 掩 黑 ; 香 與 臭 混, 臭 能 勝 香, 香 不 能 敵 臭 ; 此 君 子 小 人 相 攻 之 大 勢 也。
Hắc dữ bạch giao, hắc năng ô bạch, bạch bất năng yểm hắc; hương dữ xú hỗn, xú năng thắng hương, hương bất năng địch xú. Thử quân tử tiểu nhân tương công chi đại thế dã.
197. Một chữ”sỉ” (xấu hổ) có thể trị được người quân tử, một chữ”thống” (đau đớn) có thể trị được kẻ tiểu nhân.
「恥」之 一 字,所 以 治 君 子; 「痛」 之 一 字,所 以 治 小 人。
“Sỉ” chi nhất tự, sở dĩ trị quân tử, ”thống” chi nhất tự, sở dĩ trị tiểu nhân.
198. Gương không thể tự soi, cân không thể tự cân, kiếm không thể tự chém.
鏡 不 能 自 照, 衡 不 能 自 權, 劍 不 能 自 擊。
Kính bất năng tự chiếu, hành bất năng tự quyền, kiếm bất năng tự kích.
199. Người xưa: "Thơ tất phải cùng khốn rồi sau mới hay". Bởi cùng khốn thì có nhiều cảm khái, dễ tìm thấy được cái sở trường. Nếu là kẻ phú quý, đã không thể lo khổ than nghèo, lời đàm luận chẳng qua cũng chỉ nói đến trăng gió khói mây, thì thơ làm sao mà hay cho được? Muốn biến đổi thì có một cách là đi du ngoạn, thấy được núi sông phong thổ, sản vật nhân tình, những cảnh lửa binh tang tóc, hoặc cảnh hạn hán thiên tai, chẳng có gì là không thể gởi vào thơ. Đem nỗi sầu bi cùng khốn của người để hỗ trợ cho lời ta thán trong thơ của ta, thì thơ cũng không cần "phải cùng khốn rồi sau mới hay" vậy.
古 人 云 : 「 詩 必 窮 而 後 工。 」 蓋 窮 則 與 多 感 慨, 易 於 見 長 耳。 若 富 貴 中 人, 既 不 可 憂 貧 歎 賤, 所 談 者 不 過 風 雲 月 露 而 已, 詩 安 得 佳 ? 苟 思 所 變, 計 惟 有 出 遊 一 法。即 以 所 見 之 山 川 風 土 物 產 人 情, 或 當 瘡 痍 兵 燹 之 餘, 或 值 旱 潦 災 祲 之 後, 無 一 不 可 寓 之 詩 中。 借 他 人 之 窮 愁, 以 供 我 之 詠 歎, 則 詩 亦 不 必 待 窮 而 後 工 也。
Cổ nhân vân: "Thi tất cùng nhi hậu công". Cái cùng tắc ngữ đa cảm khái, dị ư kiến trường nhĩ. Nhược phú quý trung nhân, ký bất khả ưu bần thán tiện, sở đàm giả bất quá phong vân nguyệt lộ nhi dĩ, thi an đắc giai. Cẩu tư sở biến, kế duy hữu xuất du nhất pháp, tức dĩ sở kiến chi sơn xuyên phong thổ vật sản nhân tình, hoặc đương sang di binh tiển chi dư, hoặc trị hạn lạo tai tẩm chi hậu, vô nhất bất khả ngụ chi thi trung, tá tha nhân chi cùng sầu, dĩ cung ngã chi vịnh thán, tắc thi diệc bất tất đãi cùng nhi hậu công dã.
200. Do giới mà được định, do định mà được huệ(13), gượng gần được với tự nhiên; luyện tinh để hóa khí, luyện khí để hóa thần(14), thanh hư làm sao mà có cặn bã cho được?
由戒得定,由定得慧,勉強漸近自然, 鍊 精 化 氣, 鍊 氣 化 神, 清 虛 有 何 渣 滓 ?
Do giới đắc định, do định đắc huệ, miễn cưỡng tiệm cận tự nhiên, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, thanh hư hữu hà tra chỉ?
Chú thích:
(1) Cốt cách kiêu ngạo
(2) Tấm lòng kiêu ngạo
(3) Tức Bá Di Thúc Tề, hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Chu. Hai ông can Vũ Vương đừng đánh Trụ mà không được,nên sau Vũ Vương tiêu diệt được Trụ, lập nên nhà Chu, hai ông thề suốt đời không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi ở ẩn.
(4) Tức Quản Trọng và Yến Anh, hai vị tể tướng lỗi lạc thời Chiến Quốc, giúp nước Tề lập được nghiệp bá.
(5) Triều đại của vua Thuấn, một ông vua huyền thoại của Trung Quốc, được xem là thời thiên hạ thái bình.
(6) Thuật ngữ Phật giáo chỉ 4 loài tái sinh
óa sinh là loài do y vào nghiệp lực mà hóa sinh, như chư thần; Thai sinh là loài sinh ra từ bào thai, như con người, muông thú; Noãn sinh là loài sinh do ra từ trứng, như gia cầm, chim chóc; Thấp sinh là loài sinh ra từ những nơi ẩm thấp, như các loài vi sinh, phiêu sinh vật…
(7) Dụng cụ đo bóng mặt trời thời cổ để tính thời gian.
(8) Đại hội tài thí và pháp thí của Phật giáo, dành cho mọi tầng lớp chúng sinh, không phân biệt sang hèn, tăng tục, trí ngu (cứ 3 năm tổ chức một lần)
(9) Ba dòng tư tưởng chính trong lịch sử triết hoc Trung Quốc : Nho, Thích, Lão.
(10) Y Doãn (1648 TCN?-1549 TCN?), là vị tể tướng giỏi của nhà Thương; giúp vua Thành Thang phạt vua Kiệt nhà Hạ và lập nhà Thương.
11) Đồng thời với Khổng Tử, nối tiếng thanh khiết, được đời sau xưng là”Thánh chi thanh”
(12) Loại côn trùng cánh trắng như bạc thường ăn giấy trong sách.
(13) Giới luật, thiền định và trí huệ là ba pháp môn tu hành của đạo Phật, gọi là Tam học. Giữ giới luật thì tâm được định, và nhờ định mà phát sinh trí huệ.
(14) Tinh là chất dinh dưỡng hấp thụ từ tinh hoa thức ăn, khí là sức hoạt động của nội tạng, thần là phần linh hoạt biểu hiện sức sống. Quan hệ giữa tinh, khí, thần trong mỗi cơ thể là mấu chốt chủ yếu để duy trì sự sống. Sinh mạng con người bắt đầu từ tinh, sống được là nhờ khí, mà chủ sinh mạng lại là thần. Tinh, khí, thần là ba khái niệm cơ bản trong phép tu tiên của đạo gia, được gọi là Tam bảo.
@ Cop bệt từ Cổ Dã Tử.
Trương Triều - U Mộng Ảnh (phần 5)
U mộng ảnh
.
101. Văn chương là gấm vóc có lời, gấm vóc là văn chương không lời, cả hai đều cùng phát xuất từ một nguồn. Đại khái mà bàn luận thì các nơi như Kim Lăng, Vũ Lâm, Cô Tô, nơi nào có sách thì nơi đó có khung cửi dệt.
文 章 是 有 字 句 之 錦 繡, 錦 繡 是 無 字 句 之 文 章, 兩 者 同 出 于 一 原。 姑 即 粗 跡 論 之, 如 金 陵, 如 武 林, 如 姑 蘇, 書 林 之 所 在, 即 機 杼 之 所 在 也。
Văn chương thị hữu tự cú chi cẩm tú, cẩm tú thị vô tự cú chi văn chương, lượng giả đồng xuất vu nhất nguyên. Cô tức thô tích luận chi, như kim lăng, như võ lâm, như cô tô, thư lâm chi sở tại, tức ky trữ chi sở tại dã.
102. Tôi thường gồm các tự thiếp để làm thơ. Chữ không phức tạp mà nhiều thì không gì qua ”Thiên tự văn”, nhưng những chữ mà các nhà thơ thường dùng trước mắt, khổ ở chỗ chưa hoàn bị. Các chữ chỉ về thiên văn như: yên (khói), hà (ráng), phong (gió), tuyết (tuyết); các chữ chỉ về địa lý như: giang (sông), sơn (núi), đường (ao), ngạn (bờ); các chữ chỉ về thời tiết như: xuân (mùa xuân) , tiêu (nửa đêm), hiểu (sáng sớm), mộ (chiều tối); các chữ chỉ về nhân vật như: ông (ông già), tăng (thầy tu), ngư (người đánh cá), tiều (người đốn củi); các chữ chỉ về cây cỏ như: hoa (hoa), liễu (cây liễu), đài (rêu), bình (bèo); các chữ chỉ về chim chóc và côn trùng như: phong (ong), điệp (bướm), oanh (chim oanh), yến (chim én); các chữ chỉ về nhà cửa như: đài (nền cao), lan (lan can), hiên (mái hiên), song (cửa sổ); các chữ chỉ về vật dụng như: chu (ghe nhỏ), thuyền (ghe lớn), hồ (cái bình), trượng (gậy chống); các chữ chỉ về nhân sự như: mộng (giấc mộng), ý (ý nghĩ), sầu (buồn), hận (giận, hận); các chữ chỉ về quần áo như: quần (quần), tụ (tay áo), cẩm (gấm), ỷ (lụa); các chữ chỉ về ăn uống như: trà (trà), tương (nước tương), ẩm (uống), chước (rót rượu); các chữ chỉ về thân thể như: mấn (tóc mai), mi (lông mày), vận (phong cách), thái (dáng vẻ); cách chữ chỉ về thanh sắc như: hồng (màu hồng), lục (màu xanh), hương (mùi thơm), diễm (đẹp); các chữ chỉ về văn chương như: tao (ly tao), phú (thể phú) đề (đầu đề), ngâm (ngâm nga); các chữ chỉ về số mục như: nhất (một), tam (ba) song (cặp), bán (một nửa) thì Thiên tự văn đều không có. Thiên tự văn còn thế, huống gì sách khác?
予 嘗 集 諸 法 帖 字 為 詩。 字 之 不 複 而 多 者, 莫 善 于 《 千 字 文 》, 然 詩 家 目 前 常 用 之 字, 猶 苦 其 未 備。 如 天 文 之 煙 、 霞 、 風 、 雪, 地 理 之 江 、 山 、 塘 、 岸, 時 令 之 春 、 宵 、 曉 、 暮, 人 物 之 翁 、 僧 、 漁 、 樵, 花 木 之 花 、 柳 、 苔 、 萍, 鳥 獸 之 蜂 、 蝶 、 鶯 、 燕, 宮 室 之 臺 、 欄 、 軒 、 窗, 器 用 之 舟 、 船 、 壺 、 杖, 人 事 之 夢 、 憶 、 愁 、 恨, 衣 服 之 裙 、 袖 、 錦 、 綺, 飲 食 之 茶 、 漿 、 飲 、 酌, 身 體 之 鬚 、 眉 、 韻 、 態, 聲 色 之 紅 、 綠 、 香 、 豔, 文 史 之 騷 、 賦 、 題 、 吟, 數 目 之 一 、 三 、 雙 、 半, 皆 無 其 字。 《 千 字 文 》 且 然, 況 其 他 乎 ?
Dư thường tập chư pháp thiếp tự vi thi. Tự chi bất phức nhi đa giả, mạc thiện vu ”Thiên văn tự”, nhiên thi gia mục tiền thường dụng chi tự, do khổ kỳ vị bị. Như thiên văn chi yên, hà, phong, tuyết; địa lý chi giang, sơn, đường, ngạn; thời lệnh chi xuân, tiêu, hiểu, mộ; nhân vật chi ông, tăng, ngư, tiều; hoa mộc chi hoa, liễu, đài, bình; điểu thú chi phong, điệp, oanh, yên; cung thất chi đài, lan, hiên, song; khí dụng chi chu, thuyền, hồ, trượng; nhân sự chi mộng, ức, sầu, hận; y phục chi quần, tụ, cẩm, ỷ; ẩm thực chi trà, tương, ấm, chước; thân thể chi tu, mi, vận, thái; thanh sắc chi hồng, lục, hương, diễm; văn sử chi tao, phú, đề, ngâm; số mục chi nhất, tam, song, bán, giai vô kỳ tự. Thiên văn tự thả nhiên, huống kỳ tha hồ?
103. Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, người đẹp không nên thấy chết yểu.
花 不 可 見 其 落, 月 不 可 見 其 沈, 美 人 不 可 見 其 夭。
Hoa bất khả kiến kỳ lạc, nguyệt bất khả kiến kỳ thẩm, mỹ nhân bất khả kiến kỳ yểu.
104. Trồng hoa nên thấy khi hoa nở, đón trăng nên thấy lúc trăng tròn, viết sách nên thấy lúc hoàn thành, người đẹp nên thấy được vui vẻ, sung sướng, nếu không thì chỉ uổng công.
種 花 須 見 其 開, 待 月 須 見 其 滿, 著 書 須 見 其 成, 美 人 須 見 其 暢 適, 方 有 實 際。 否 則 皆 為 虛 設。
Chủng hoa tu kiến kỳ khai, đãi nguyệt tu kiến kỳ mãn, trước thư tu kiến kỳ thành, mỹ nhân tu kiến kỳ sướng đích, phương hữu thực tế. Phủ tắc giai vi hư thiết.
105. Huệ Thi(1) viết nhiều, sách ông chứa đến năm xe; Ngu Khanh(2) vì cảnh cùng sầu mà viết sách, sách của cả hai ông đều không truyền đến ngày nay. Không biết trong sách nói gì? Tôi không gặp được người xưa, làm sao mà không hận?
惠 施 多 方, 其 書 五 車 ; 虞 卿 以 窮 愁 著 書, 今 皆 不 傳。 不 知 書 中 果 作 何 語 ?我 不 見 古人,安 得 不 恨 ?
Huê Thi đa phương, kỳ thư ngũ xa, Ngu Khanh dĩ cùng sầu trứ thư, kim giai bất truyền. Bất tri thư trung quả tác hà ngữ? Ngã bất kiến cổ nhân, an đắc bất hận ?
106. Lấy hoa thông làm lương thực, lấy trái thông làm hương liệu, lấy cành thông làm chổi quét, lấy sóng lao xao trên ngọn thông làm tiếng trống. Ở trong núi mà có được hơn trăm cây thông lớn, thật là có thể dùng mãi không hết.
以 松 花 為 量, 以 松 實 為 香, 以 松 枝 為 麈 尾, 以 松 陰 為 步 障, 以 松 濤 為 鼓 吹。 山 居 得 喬 松 百 餘 章, 真 乃 受 用 不 盡。
Dĩ tùng hoa vi lương, dĩ tùng thực vi hương, dĩ tùng chi vi chủ vĩ, dĩ tùng âm vi bộ chướng, dĩ tùng đào vi cổ xúy. Sơn cư đắc kiều tùng bách dư chương, chân nãi thụ dụng bất tận.
107. Phép ngắm trăng : trắng tỏ nên ngẩng mà ngắm, trăng mờ nên cúi mà nhìn.
玩 月 之 法,皎 潔 則 仰 觀,朦 朧 則 宜 俯 視。
Ngoạn nguyệt chi pháp : hạo khiết tắc nghi ngưỡng quán, mông lung tắc nghi phủ thị.
108. Trẻ thơ chẳng biết một điều gì, mắt không phân biệt được vẻ đẹp xấu, tai không phân biệt được tiếng đục trong, mũi chưa phân biệt được mùi thơm thối; nhưng nếu vị đắng hay ngọt thì không những biết ngay mà biết chọn hay bỏ nữa. Cho nên dùng đồ ngon ngọt để dỗ con thì mặt mày hớn hở, hầu như chỉ do vậy mà thôi.
孩 提 之 童, 一 無 所 知。 目 不 能 辨 美 惡, 耳 不 能 判 清 濁, 鼻 不 能 別 香 臭。 至 若 味 之 甘 苦, 則 不 第 知 之, 且 能 取 之 棄 之。 告 子 以 甘 食 、 悅 色 為 性,殆 指 此 類 耳。
Hài đề chi đồng, nhất vô sở tri. Mục bất năng biện mỹ ố, nhĩ bất năng phán thanh trọc, tỵ bất năng biệt hương xú. Chí nhược vị chi cam khổ, tắc bất đệ tri chi, thả năng thủ chi khí chi. Cáo tử dĩ cam thực, duyệt sắc vi tính, đãi chỉ thử loại nhĩ.
109. Phàm việc không nên khắt khe, nhưng đọc sách thì không thể không khắc khe; việc không nên tham, nhưng mua sách không thể không tham; việc không nên đam mê, nhưng làm việc thiện không thể không đam mê.
凡 事 不 宜 刻, 若 讀 書 則 不 可 不 刻 ; 凡 事 不 貪, 若 買 書 則 不 可 不 貪 ; 凡 事 不 宜, 若 行 則 可 不 癡。
Phàm sự bất nghi khắc, nhược độc thư tắc bất khả bất khắc, phàm sự bất nghi tham, nhược mãi thư tắc bất khả bất tham, phàm sự bất nghi si, nhược hành thiện tắc bất khả bất si.
110. Rượu cũng tốt, nhưng chớ để vì say sưa mà gây gỗ; sắc cũng tốt, nhưng chớ để vì si mê mà làm tổn hại đến đời sống; tiền cũng tốt, nhưng chớ để vì tham lam làm mờ tối lương tâm; nóng giận cũng được nhưng chớ để vì không kìm chế mà vượt qua chữ lý.
酒 可 好, 不 可 罵 座 ; 色 可 好, 不 可 傷 生 ; 財 可 好, 不 可 昧 心 ; 氣 可 好, 不 可 越 理。
Tửu khả hảo, bất khả mạ tọa; sắc khả hảo; bất khả thương sinh; tài khả hảo bất khả muội tâm; khí khả hảo; bất khả việt lý.
111. Tên tuổi văn chương có thể sánh với việc thi đậu; tiết kiệm có thể sánh với tài sản; thanh nhàn có thể sánh với tuổi thọ.
文 名, 可 以 當 科 第 ; 儉 德, 可 以 當 貨 財 ; 清 閒,可 以 當 壽 考。
Văn danh khả dĩ đương khoa đệ, kiệm đức khả dĩ đương hóa tài, thanh nhàn khả dĩ đương thọ khảo.
112. Không chỉ ngâm thơ mà còn đọc sách người xưa là làm bạn với cổ nhân, còn xem chữ viết và tranh vẽ của người xưa là đến được nơi họ ở.
不 獨 誦 其 詩 讀 其 書, 是 尚 友 古 人 ; 即 觀 字, 亦 是 尚 友 古 人 處。
Bất độc tụng kỳ thi, độc kỳ thư, thị thượng hữu cổ nhân; tức quán kỳ tự họa, diệc thị thượng hữu cổ nhân xứ.
113. Bố thí vô ích, không gì bằng cúng thầy tu; thơ văn vô ích, không gì bằng lời chúc thọ.
無 益 之 施 捨, 莫 過 于 齋 僧 ; 無 益 之 詩 文, 甚 于 祝 壽。
Vô ích chi thí xả mạc quá ư trai tăng, vô ích chi thi văn mạc quá ư chúc thọ.
114. Vợ lẽ đẹp không bằng vợ chính hiền, tiền nhiều không bằng cảnh thuận.
妾 美 不 如 妻 賢 ; 錢 多 不 如 境 順。
Thiếp mỹ bất như thê hiền, tiền đa bất như cảnh thuận.
115. Xây am mới, không bằng tu sửa miếu cũ; đọc sách mới, không bằng ôn văn xưa.
創 新 庵, 不 若 修 古 廟 ; 讀 生 書,不 溫 業。
Sáng tân am bất nhược tu cổ miếu; độc sinh thư bất nhược ôn cựu nghiệp.
116. Chữ viết và hội họa cùng chung một nguồn gốc, cứ xem lục thư xuất phát từ chữ tượng hình thì đủ biết.
字 與 畫 同 出 一 源, 觀 六 書 始 於 象 形, 則 可 知 矣。
Tự dữ họa đồng xuất nhất nguyên. Quán lục thư thủy ư tượng hình, tắc khả tri dĩ.
117. Vườn của người bận rộn, nên bố trí gần nhà; vườn của người nhàn nhã, có xa cũng chẳng hề gì.
忙 人 園 亭, 宜 與 住 宅 相 連 ; 閒 人 園 亭, 不 妨 與 住 宅 相 遠。
Mang nhân viên đình, nghi dữ trú trạch tướng liên, nhàn nhân viên đình, bất phương dữ trú trạch tương viễn.
118. Rượu có thể thay trà, trà không thể thay rượu; thơ có thể thay văn, văn không thể thay thơ; khúc có thể thay từ, từ không thể thay khúc; trăng có thể thay đèn, đèn không thể thay trăng; bút có thể thay miệng, miệng không thể thay bút; tỳ thiếp có thể thay người hầu, người hầu không thể thay tỳ thiếp.
酒 可 以 當 茶, 茶 不 可 以 當 酒; 詩 可 以 當 文, 文 不 可 以 當 詩; 曲 可 以 當 詞, 詞 不 可 以 當 曲; 月 可 以 當 燈, 燈 不 可 以 當 月; 筆 可 以 當 口, 口 不 可 以 當 筆; 婢 可 以 當 奴,奴 不 可 以 當 婢。
Tửu khả dĩ đương trà, trà bất khả dĩ đương tửu; thi khả dĩ đương văn, văn bất khả dĩ đương thi; khúc khả dĩ đương từ, từ bất khả dĩ đương khúc; nguyệt khả dĩ đương đăng, đăng bất khả dĩ đương nguyệt; bút khả dĩ đương khẩu, khẩu bất khả dĩ đương bút; tỳ khả dĩ đương nô, nô bất khả dĩ đương tỳ.
119. Mối bất bình nhỏ trong lòng, có thể dùng rượu để nguôi đi; mối bất bình lớn trong đời, không dùng kiếm không sao nguôi được.
胸 中 小 不 平, 可 以 酒 消 之 ; 世 間 大 不 平, 非 劍 不 能 消 也。
Hung trung tiểu bất bình, khả dĩ tửu tiêu chi; thế gián đại bất bình, phi kiếm bất năng tiêu dã.
120. Bất đắc dĩ mà phải nịnh thì thà dùng miệng, không nên dùng bút; bất đắc dĩ mà phải mắng cũng thà dùng miệng, không nên dùng bút.
不 得 以 而 諛 之 者, 寧 以 口, 毋 以 筆 ; 不 可 耐 而 罵 之 者, 亦 寧 以 口,毋 以 筆。
Bất đắc dĩ nhi du chi giả, ninh dĩ khẩu, vô dĩ bút; bất khả nại nhi mạ chi giả, diệc ninh dĩ khẩu, vô dĩ bút.
121. Kẻ đa tình tất mê sắc, nhưng kẻ mê sắc chưa hẳn đã đa tình; hồng nhan ắt bạc mệnh, nhưng kẻ bạc mệnh chưa hẳn đã là khách hồng nhan; kẻ biết làm thơ ắt thích rượu, nhưng kẻ thích rượu chưa hẳn đã biết làm thơ.
多 情 者 必 好 色, 而 好 色 者 未 必 盡 屬 多 情 ; 紅 顏 者 必 薄 命, 而 薄 命 者 未 必 盡 屬 紅 顏 ; 能 詩 者 必 好 酒, 而 好 酒 者 未 必 盡 屬 能 詩。
Đa tình giả tất háo sắc, nhi háo sắc giả vị tất tận thuộc đa tình, hồng nhan giả tất bạc mệnh, nhi bạc mệnh giả vị tất tận thuộc hồng nhan; năng thi giả tất háo tửu, nhi háo tửu giả vị tất tận thuộc năng thi.
122. Mai khiến người cao nhã, lan khiến người trầm mặc, cúc khiến người bình dã, sen khiến người điềm đạm, xuân hải đường khiến người xinh đẹp, mẫu đơn khiến người hào sảng, chuối và trúc khiến người phong vận, thu hải đường khiến người kiều mỵ, thông khiến người phóng dật, ngô đồng khiến người thanh cao, liễu khiến người sầu cảm.
梅 令 人 高, 蘭 令 人 幽, 菊 令 人 野, 蓮 令 人 淡, 春 海 棠 令 人 艷, 牡 丹 令 人 豪, 蕉 與 竹 令 人 韻, 秋 海 棠 令 人 媚, 松 令 人 逸, 桐 令 人 清, 柳 令 人 感。
Mai linh nhân cao, lan linh nhân u, cúc linh nhân dã, liên linh nhân đạm, xuân hải đường linh nhân diễm, mẫu đan linh nhân hào, tiêu dữ trúc linh nhân vận, thu hải đường linh nhân mị, tùng linh nhân dật, đồng linh nhân thanh, liễu linh nhân cảm.
123. Vật có thể làm cảm động lòng người, thì trên trời không có gì bằng ánh trăng, trong âm nhạc không có gì bằng đàn cầm, trong động vật không có gì bằng chim quyên, trong thực vật không có gì bằng cây liễu.
物 之 能 感 人 者 : 在 天 莫 如 月, 在 樂 莫 如 琴, 在 動 物 莫 如 鵑, 在 植 物 莫 如 柳。
Vật chi năng cảm nhân giả, tại thiên mạc như nguyệt, tại lạc mạc như cầm, tại động vật mạc như điểu, tại thực vật mạc như liễu.
124. Vợ con làm lụy đến người, nên chuộng cảnh”mai thê hạc tử” của Hòa Tĩnh(3); nô tỳ cũng làm được việc, nên thích cảnh”tiều tỳ ngư nô” của Chí Hòa(4).
妻 子 頗 足 累 人, 羨 和 靖 梅 妻 鶴 子 ; 奴 婢 亦 能 供 職, 喜 志 和 樵 婢 漁 奴。
Thê tử phạ túc lụy nhân, tiển Hòa Tĩnh mai thê hạc tử; nô tỳ diệc năng cung chức, hỷ Chí Hòa tiều tỳ ngư nô.
125. Xem lướt sách vở tuy gọi là vô dụng, nhưng còn hơn là không hiểu chuyện cổ kim; thanh cao cố nhiên là tốt đẹp, nhưng không gì trì trệ hơn là chẳng hiểu thời vụ.
涉 獵 雖 曰 無 用, 猶 勝 于 不 通 古 今 ; 清 高 固 然 可 嘉, 莫 流 于 不 識 時 務。
Thiệp liệp tuy viết vô dụng, do thắng vu bất thông cổ kim; thanh cao cố nhiên khả gia, mạc lưu vu bất thức thời vụ.
126. Được gọi là mỹ nhân thì: mặt xinh như hoa, giọng như chim hót, tinh thần như trăng, dáng vẻ như liễu, xương cốt như ngọc, da trắng như băng tuyết, phong tư như nước mùa thu, trong lòng như thơ ca. Ta không còn chỗ nào chê được cả.
所 謂 美 人 者 : 以 花 為 貌, 以 鳥 為 聲, 以 月 為 神, 以 柳 為 態, 以 玉 為 骨, 以 冰 雪 為 膚, 以 秋 水 為 姿, 以 詩 詞 為 心。 吾 無 間 然 矣。
Sở vi mỹ nhân giả : dĩ hoa vi mạo, dĩ điểu vi thanh, dĩ nguyệt vi thần, dĩ liễu vi thái, dĩ ngọc vi cốt, dĩ băng tuyết vi phu, dĩ thu thủy vi tư, dĩ thi từ vi tâm. Ngô vô gián nhiên hỹ!
127. Có cái vui ẩn dật ở cảnh núi rừng mà không biết hưởng, đó là hạng đánh cá, đốn củi, hạng làm vườn và hạng thầy chùa; có cái vui với vườn tược, thê thiếp mà không biết hưởng, đó là hạng phú thương và hạng quan lớn.
有 山 林 隱 逸 之 樂, 而 不 知 享 者, 漁 樵 也, 農 圃 也, 緇 黃 也 ; 有 園 亭 姬 妾 之 樂, 而 不 能 享 、 不 善 享 者, 富 商 也, 大 僚 也。
Hữu sơn lâm ẩn dật chi lạc nhi bất tri hưởng giả, ngư tiều dã, nông phố dã, truy hoàng dã; hữu viên đình cơ thiếp chi lạc, nhi bất năng hưởng, bất thiện hưởng giả, phú thương dã, đại liêu dã.
128. Lê Cử nói :”Muốn đem hoa mai gả cho hải đường, đem cây cam làm bề tôi của anh đào, đem rau cải gả cho măng tre, có điều chúng lại chẳng sinh cùng thời.”. Tôi nói vật nào cũng có lứa đôi, phối hợp cũng phải có đạo lý, đem gán ghép vậy chưa hẳn đã tương xứng. Như mai là vật có phẩm hạnh rất thanh cao, hải đường lại là vật có tư chất cực kỳ xinh đẹp mà đỏng đảnh, dù có sinh cùng thời cũng không thể làm phu phụ, không bằng đem mai gả cho hoa lê, hải đường gả cho hạnh, đem chanh làm bề tôi phật thủ, đem lệ chi làm bề tôi anh đào, đem thu hải đường gả cho nhạn lai hồng thì cũng khá tương xứng. Còn đến như đem rau cải gả cho măng tre, nếu măng tre mà biết được ắt sẽ bị chịu cái lụy của sư tử Hà Đông.
黎 舉 云 : 「 欲 令 梅 聘 海 棠, 橙 子 臣 櫻 桃, 以 芥 嫁 筍, 但 時 不 同 耳。 」 予 謂 物 各 有 偶, 儗 必 於 倫, 今 之 嫁 娶, 殊 覺 未 當。 如 梅 之 為 物, 品 最 清 高; 棠 之 為 物, 姿 極 妖 艷。 即 使 同 時, 亦 不 可 為 夫 婦。 不 若 梅 聘 梨 花, 海 棠 嫁 杏, 櫞 臣 佛 手, 荔 枝 臣 櫻 桃, 秋 海 棠 嫁 雁 來 紅, 庶 幾 相 稱 耳。 至 若 以 芥 嫁 筍, 筍 如 有 知, 必 受 河 東 獅 子 之 累 矣。
Lê Cử vân :”Dục linh mai sính hải đường, tranh tử thần anh đào, dĩ giới giá duẩn, đãn thời bất đồng nhĩ.” Dư vị vật các hữu ngẫu, nghĩ tất ư luân, kim chi giá thú, thù giác vị đương. Như mai chi vi vật, phẩm tối thanh cao, đường chi vị vật, tư cực yêu diễm. Tức sử đồng thời, diệc bất khả vị phu phụ. Bất nhược mai sính lê hoa, hải đường giá hạnh, duyên thần Phật thủ, lệ chi thần anh đào, thu hải đường giá nhạn lai hồng, thứ kỷ tương xứng nhĩ. Chí nhược dĩ giới giá duẩn, duẩn như hữu tri, tất thụ Hà Đông sư tử chi lụy hỹ.
129. Ngũ sắc đều có khi thái quá có khi bất cập, chỉ có đen và trắng là không.
五 色 有 太 過,有 不 及,惟 黑 與 白 無 太 過。
Ngũ sắc hữu thái quá hữu bất cập, duy hắc dữ bạch vô thái quá.
130. Xem Thủy hử đến đoạn Lỗ Đạt đánh Trấn Quan Tây, Võ Tòng đánh cọp, nhân đó mà nghĩ con người ta tất phải có việc làm cực kỳ khoái ý như thế, mới không sống uổng một đời. Còn nếu không làm được việc đó, thì cũng nên viết sách tả được những điều đắc ý mới khỏi ân hận.
閱 《 水 滸 傳 》, 至 魯 達 打 鎮 關 西, 武 松 打 虎, 因 思 人 生 必 有 一 樁 極 快 意 事, 方 不 枉 在 生 一 場 ; 即 不 能 有 其 事, 亦 須 著 得 一 種 得 意 之 書, 庶 幾 無 憾 耳。
Duyệt ”Thủy hử truyện”, chí Lỗ Đạt đả Trấn Quan Tây, Võ Tòng đả hổ, nhân tư nhân sinh tất hữu nhất thung cực khoái ý sự, phương bất uổng sinh nhất trường. Tức bất năng hữu kỳ sự, diệc tu trước đắc nhất chủng đắc ý chi thư, thứ cơ vô hám nhĩ.
131. Gió xuân lâng lâng như rượu, gió hè sảng khoái như trà, gió thu mênh mang như khói, gió đông giá buốt như gừng, cải.
春 風 如 酒, 夏 風 如 茗, 秋 風 如 煙, 冬 風 如 薑 芥。
Xuân phong như tửu, hạ phong như mính, thu phong như yên, như khương giới.
132. Hoa văn xù nhám trông cực nhã, nhưng nên mảnh không nên dày; nếu dùng làm song cửa thì thực khó coi.
冰 裂 紋 極 雅, 然 宜 細, 不 宜 肥。 若 以 之 作 窗 欄, 殊 不 耐 觀 也。
Băng liệt văn cực nhã, nhiên nghi tế, bất nghi phì. Nhược dĩ chi tác song lan, thù bất nại quán dã.
133. Những chim có tiếng hót cực hay thì họa mi là nhất, kế đó là hoàng anh, rồi tới bách thiệt. Có điều hoàng anh , bách thiệt trong đời chưa có ai nuôi được trong lồng cả, cơ hồ là bạn lứa của bậc cao sĩ, chỉ có thể cho nghe hót chứ không chịu khuất phục.
鳥 聲 之 最 佳 者 : 畫 眉 第 一, 黃 鸝 、 百 舌 次 之。 然 黃 鸝 、 百 舌, 世 未 有 籠 而 畜 之 者,其 殆 高 士 之 儔,可 聞 而 不 可 屈 者 耶。
Điểu thanh chi tối giai giả, họa mi đệ nhất, hoàng ly, bá thiệt thứ chi. Nhiên hoàng ly, bá thiệt, thế vị hữu lung nhi súc chi giả, kỳ đãi cao sĩ chi trù, khả văn nhi bất khả khuất giả da.
134. Không gầy sản nghiệp, về sau ắt lụy đến người; chỉ thích giao du, về sau ắt lụy đến ta.
不 治 生 產,其 後 必 致 累 人; 專 務 交 遊,其 後 必 致 累 己。
Bất trị sinh sản, kỳ hậu tất trí lụy nhân; chuyên vụ giao du, kỳ hậu tất trí lụy kỷ.
135. Kẻ khéo đọc sách thì chẳng có gì không là sách : sơn thủy cũng là sách, hoa nguyệt cũng là sách. Kẻ khéo du ngoạn sơn thủy thì chẳng có gì không là sơn thủy : sử sách cũng là sơn thủy, thơ rượu cũng là sơn thủy, hoa nguyệt cũng là sơn thủy.
善 讀 書 者, 無 之 而 非 書 : 山 水 亦 書 也, 棋 酒 亦 書 也, 花 月 亦 書 也。 善 遊 山 水 者, 無 之 而 非 山 水 : 書 史 亦 山 水 也, 詩 酒 亦 山 水 也, 花 月 亦 山 水 也。
Thiện độc thư giả vô chi nhi phi thư : sơn thủy diệc thư dã, kỳ tửu diệc thư dã, hoa nguyệt diệc thư dã, thiện du sơn thủy giả, vô chi nhi phi sơn thủy, thư sử diệc sơn thủy dã, thi tửu diệc sơn thủy dã, hoa nguyệt diệc sơn thủy dã.
136. Vườn đẹp ở chỗ bố trí gò hang, chứ không phải ở chỗ chạm trổ chi li; đi xem cảnh vườn nhà người, thấy trên đầu tường cẩn gạch khảm ngói, không phải là không cực kỳ tinh xảo, nhưng sau khi hư hỏng thì rất khó lòng sửa lại, sao bằng cái đẹp chất phác tự nhiên?
園 亭 之 妙 在 邱 壑 布 置, 不 在 雕 繪 瑣 屑。 往 往 見 人 家 園 亭, 屋 脊 牆 頭, 雕 磚 鏤 瓦。 非 不 窮 極 工 巧, 然 未 久 即 壞, 壞 後 極 難 修 葺。 是 何 如 樸 素 之 為 佳 乎?
Viên đình chi diệu tại khâu hác bố trí, bất tại điêu hội tỏa tiết. Vãng vãng kiến nhân gia viên tử ốc tích tường đầu, điêu chuyên lũ ngõa, phi bất cùng cực công xảo, nhiên vị cửu tức hoại, hoại hậu cực nan tu tập, thị hà như phác tố chi vi giai hồ?
137. Đêm thanh ngồi cô độc, mời trăng kể lể chuyện buồn; canh khuya ngủ một mình, gọi dế tỏ niềm sầu hận.
清 宵 獨 坐,邀 月 言 愁; 良 夜 孤 眠, 呼 蛩 語 恨。
Thanh tiêu độc tọa, yêu nguyệt ngôn sầu; lương dạ cô miên, hô cung ngữ hận.
138. Tên quan mà nghe qua dư luận, thì miệng kẻ giàu có với miệng kẻ bần cùng đều không chắc đâu là thật; án xử mà đã định sẵn trong lòng, thì lời bàn hoa mỹ với lời bình thô lậu chỉ e đánh mất điều chân.
官 聲 採 於 輿 論, 豪 右 之 口 與 寒 乞 之 口, 俱 不 得 其 真; 花 案 定 於 成 心, 艷 媚 之 評 與 寢 陋 之 評,概 恐 失 其 實。
Quan thanh thái ư dư luận, hào hữu chi khẩu, dữ hàn khất chi khẩu, câu bất đắc kỳ chân; hoa án định ư thành tâm, diễm mị chi bình, dữ tẩm lậu chi bình, khái khủng thất kỳ thực.
139. Trong bụng có chứa gò hang thì thành thị chẳng khác sơn lâm; cảm hứng gởi chốn yên hà, thì Diêm Đề(5) cũng như Bồng Đảo(6).
胸 藏 邱 壑, 城 市 不 異 山 林 ; 興 寄 煙 霞,閻 浮 有 如 蓬 島。
Hung tàng khâu hác, thành thị bất dị sơn lâm; hứng ký yên hà, Diêm Phù hữu như Bồng Đảo.
140. Ngô đồng là loài có phẩm hạnh thanh cao trong thực vật, nhưng hình thù của nó khiến nhiều người kiêng kỵ; thậm chí còn nói :”Ngô đồng to bằng miệng đấu, chủ nhân ra ngoài bôn tẩu”, xem nó như vật bất tường. Chuyện bẻ cành ngô đồng phong đất cho em(7), chỉ có ngô đồng trong cung mới có thể biết, thế mà xét về mặt tồn tại lâu dài thì không có triều đại nào hơn được nhà Chu. Lời của thói tục (chê cây ngô đồng) không đủ để làm bằng cứ, cũng giống như loại cây này vậy.
梧 桐 為 植 物 中 清 品, 而 形 家 獨 忌 之, 甚 且 謂 「 梧 桐 大 如 斗, 主 人 往 外 走。 」 若 竟 視 為 不 祥 之 物 也 者。 夫 翦 桐 封 弟, 其 為 宮 中 之 桐 可 知。 而 卜 世 最 久 者, 莫 過 於 周。 俗 言 之 不 足 據, 類 如 此 夫 !
Ngô đồng vi thực vật trung thanh phẩm, nhi hình gia độc kỵ chi, thậm thư vị ”Ngô đồng đại nhưđẩu, chủnhân vãng ngoại tẩu.” Nhược cánh thị vi bất tường chi vật dã giả. Phù tiễn đồng phong đệ, kỳ vi cung trung chi đồng khả tri. Nhi bốc thế tối cửu giả, mạc quá ư Chu. Tục ngôn chi bất túc cứ, loại như thử phù!
141. Kẻ đa tình không vì sinh tử mà thay lòng; kẻ thích rượu không vì nóng lạnh mà đổi tửu lượng, người khéo đọc sách không vì bận rỗi mà sáng tác vụng về.
多 情 者, 不 以 生 死 易 心; 好 飲 者, 不 以 寒 暑 改 量; 喜 讀 書 者, 不 以 忙 閒 作 輟。
Đa tình giả bất dĩ sinh tử dịch tâm, háo ẩm giả bất dĩ hàn thử cải lượng, hỷ độc thư giả bất dĩ mang nhàn tác chuyết.
142. Nhện là nước thù địch của bướm, lừa là nước chư hầu của ngựa.
蛛 為 蝶 之 敵 國, 驢 為 馬 之 附 庸。
Thù vi điệp chi địch quốc, lư vi mã chi phụ dung.
143. Lập phẩm hạnh, nên noi người Tống mà phát huy đạo học(8); sống với đời, nên theo đời Tấn mà học cách phong lưu(9).
立 品, 須 發 乎 宋 人 之 道 學 ; 涉 世, 須 參 以 晉 代 之 風 流。
Lập phẩm, tu phát hồ Tống nhân chi đạo học, thiệp thế, tu tham dĩ Tấn đại chi phong lưu.
144. Người xưa nói cầm thú cũng biết đến nhân luân. Tôi nói đâu chỉ cầm thú, cả thảo mộc cũng vậy. Mẫu đơn là vua, thược dược là tể tướng, đó là vua tôi vậy; cây kiều ở núi Nam, cây tử(10) ở núi Bắc, đó là cha con vậy; nghe nói cây kinh(11) chia ra thì chết, để nguyên bụi thì sống, đó là anh em vậy; sen mọc cùng đài, đó là vợ chồng vậy; hoa lan cùng nhụy, đó là bè bạn vậy.
古 謂 禽 獸 亦 知 人 倫。 予 謂 匪 獨 禽 獸 也, 即 草 木 亦 復 有 之。 牡 丹 為 王, 芍 藥 為 相, 其 君 臣 也; 南 山 之 喬, 北 山 之 梓, 其 父 子 也; 荊 之 聞 分 而 枯, 聞 不 分 而 活, 其 兄 弟 也; 蓮 之 並 蒂, 其 夫 婦 也; 蘭 之 同 心, 其 朋 友 也。
Cổ vị cầm thú diệc tri nhân luân. Dữ vị phi độc cầm thú dã, tức thảo mộc diệc phục hữu chi. Mẫu đơn vi vương, thược dược vi tướng, kỳ quân thần dã; nam sơn chi kiều, bắc sơn chi tử, kỳ phụ tử dã; kinh chi văn phân nhi khô, văn bất phân nhi hoạt, kỳ huynh đệ dã; liên chi tính đế, kỳ phu phụ dã; lan chi đồng tâm, kỳ bằng hữu dã.
145. Hào kiệt khác với thánh hiền, văn nhân nhiều hơn tài tử.
豪傑易于聖賢,文人多於才子。
Hào kiệt dị vu thánh hiền, văn nhân đa ư tài tử.
146. Trâu với ngựa : một nhập thế, một ẩn dật; nai với lợn : một thần tiên, một phàm phu.
牛與馬,一仕而一隱也; 鹿與豕,一 仙 而 一凡也。
Ngưu dữ mã, nhất sĩ nhi nhất ẩn dã; lộc dữ thỉ, nhất tiên nhi nhất phàm dã.
147. Văn chương tuyệt đỉnh cổ kim đều được viết bằng máu và nước mắt.
古今至文,皆以血淚所成。
Cổ kim chí văn, giai huyết lệ sở thành.
148. Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn.
情之一字,所以維持世界; 才之一字, 所 以 粉 飾 乾 坤。
Tình chi nhất tự, sở dĩ duy trì thế giới, tài chi nhất tự, sở dĩ phấn sức kiền khôn.
149. Khổng Tử sinh ở Trần Lỗ, Trần đó là phương sống, cho nên lễ nhạc văn chương(12), đạo lý đó từ không mà thành có; Thích Ca sinh ở Tây phương, Tây là đất chết, cho nên thọ tưởng hành thức(13), lời giáo hóa từ có hóa thành không.
孔子生 於 東 魯,東 者 生 方。故 禮 樂 文章,其 道 皆 自 無 而 有。 釋 迦 生 於 西 方,西 者 死 地。 故 受 想 行 識,其 教 皆 自 有 而 無。
Khổng Tử sinh ư Đông Lỗ, đông giả sinh phương. Cố lễ nhạc văn chương, kỳ đạo giai tự vô nhi hữu. Thích Ca sinh ư Tây phương, tây giả tử địa. Cố thụ tưởng hành thức, kỳ giáo giai tự hữu nhi vô.
150. Có non xanh rồi mới có nước biếc, nước mượn sắc ở non; có rượu ngon rồi mới có thơ hay, thơ mượn thần ở rượu.
有 青 山 方 有 綠 水,水 惟 借 色 於 山; 有 美 酒 便 有 佳 詩,詩 亦 乞 靈 於 酒。
Hữu thanh sơn phương hữu lục thủy, thủy duy tá sắc ư sơn; hữu mỹ tửu tiện hữu giai thi, thi diệc khất linh ư tửu.
Chú thích:
(1) Triết gia thời Chiến Quốc, bạn với Trang Tử. Tương truyền sách ông viết chất đầy cả năm xe.
(2) Du sĩ thời Chiến Quốc, ông mang dép mo, áo tơi đến du thuyết Hiếu Thành Vương nước Triệu. Yết kiến lần thứ nhất được nhà vua cho trăm dật vàng, một đôi ngọc bạch bích. Yết kiến lần thứ hai được làm thượng khanh nước Triệu, cho nên hiệu là Ngu Khanh
(3) Tức Lâm Bô, nhà thơ đời Bắc Tống, được gọi là "Tây Hồ ẩn sĩ". Ống một mình ở Tây Hồ, nuôi hạc trồng mai, và thường bảo lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con.
(4) Tức Trương Chí Hòa, nhà thơ Trung Đường, sống tự tại trong cảnh ngư tiều, xem cảnh đốn củi và câu cá như là những con hầu tỳ thiếp của mình, ông có bài Ngư Phủ ca.
(5) Cảnh trần gian, theo nhà Phật.
(6) Nơi ở của thần tiên, theo truyền thuyết Trung Quốc
(7) Sử ký chép vua Chu Thành Vương lúc vui đùa với em là Thúc Ngu, bẻ lá ngô đồng đưa cho em nói đùa: “Phong cho ngươi đất Đường đấy”. Quan thái sử đứng hầu xin vua chọn ngày để làm lễ. Thành Vương nói “ Ta đùa đấy mà”. Quan thái sử tâu : “Làm vua không được nói đùa”. Vua bèn phong đất Đường cho em.
(8) Vào đời Tống, Trung Quốc phát triển đạo học rất mạnh, với những tên tuổi như Chu Liêm Khê. Trình Di, Trình Hạo, Lục Tượng Sơn, Chu Hy …
(9) Vào đời Tấn, phong trào sống phong lưu nhàn nhã nổi bật với các tên tuổi : Đào Uyên Minh, Trúc Lâm thất hiền ..
(10) Cây tử dùng để đóng đàn; còn tượng trưng cho con
(11) Cây gai, một loài cây thuộc họ Rubus, thường mọc thành từng bụi rải rác ở gò, đồi.
(12) Dùng thi ca văn chương để mở rộng kiến thức, hàm dưỡng tâm linh, và dùng lễ để ước thúc con người (bác văn ước lễ), đó là cách giáo hóa của Nho giáo.
(13) Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) chính là 5 yếu tố tích tụ lại mà tạo ra xác thân con người. "Sắc" là hình thể . "Thụ" là cái mình cảm nhận. "Tưởng" là tư tưởng. "Hành" là hành động, hành vi. "Thức" là tri thức, sự hiểu biết. Đây là các khái niệm cơ bản của Phật giáo..
.
101. Văn chương là gấm vóc có lời, gấm vóc là văn chương không lời, cả hai đều cùng phát xuất từ một nguồn. Đại khái mà bàn luận thì các nơi như Kim Lăng, Vũ Lâm, Cô Tô, nơi nào có sách thì nơi đó có khung cửi dệt.
文 章 是 有 字 句 之 錦 繡, 錦 繡 是 無 字 句 之 文 章, 兩 者 同 出 于 一 原。 姑 即 粗 跡 論 之, 如 金 陵, 如 武 林, 如 姑 蘇, 書 林 之 所 在, 即 機 杼 之 所 在 也。
Văn chương thị hữu tự cú chi cẩm tú, cẩm tú thị vô tự cú chi văn chương, lượng giả đồng xuất vu nhất nguyên. Cô tức thô tích luận chi, như kim lăng, như võ lâm, như cô tô, thư lâm chi sở tại, tức ky trữ chi sở tại dã.
102. Tôi thường gồm các tự thiếp để làm thơ. Chữ không phức tạp mà nhiều thì không gì qua ”Thiên tự văn”, nhưng những chữ mà các nhà thơ thường dùng trước mắt, khổ ở chỗ chưa hoàn bị. Các chữ chỉ về thiên văn như: yên (khói), hà (ráng), phong (gió), tuyết (tuyết); các chữ chỉ về địa lý như: giang (sông), sơn (núi), đường (ao), ngạn (bờ); các chữ chỉ về thời tiết như: xuân (mùa xuân) , tiêu (nửa đêm), hiểu (sáng sớm), mộ (chiều tối); các chữ chỉ về nhân vật như: ông (ông già), tăng (thầy tu), ngư (người đánh cá), tiều (người đốn củi); các chữ chỉ về cây cỏ như: hoa (hoa), liễu (cây liễu), đài (rêu), bình (bèo); các chữ chỉ về chim chóc và côn trùng như: phong (ong), điệp (bướm), oanh (chim oanh), yến (chim én); các chữ chỉ về nhà cửa như: đài (nền cao), lan (lan can), hiên (mái hiên), song (cửa sổ); các chữ chỉ về vật dụng như: chu (ghe nhỏ), thuyền (ghe lớn), hồ (cái bình), trượng (gậy chống); các chữ chỉ về nhân sự như: mộng (giấc mộng), ý (ý nghĩ), sầu (buồn), hận (giận, hận); các chữ chỉ về quần áo như: quần (quần), tụ (tay áo), cẩm (gấm), ỷ (lụa); các chữ chỉ về ăn uống như: trà (trà), tương (nước tương), ẩm (uống), chước (rót rượu); các chữ chỉ về thân thể như: mấn (tóc mai), mi (lông mày), vận (phong cách), thái (dáng vẻ); cách chữ chỉ về thanh sắc như: hồng (màu hồng), lục (màu xanh), hương (mùi thơm), diễm (đẹp); các chữ chỉ về văn chương như: tao (ly tao), phú (thể phú) đề (đầu đề), ngâm (ngâm nga); các chữ chỉ về số mục như: nhất (một), tam (ba) song (cặp), bán (một nửa) thì Thiên tự văn đều không có. Thiên tự văn còn thế, huống gì sách khác?
予 嘗 集 諸 法 帖 字 為 詩。 字 之 不 複 而 多 者, 莫 善 于 《 千 字 文 》, 然 詩 家 目 前 常 用 之 字, 猶 苦 其 未 備。 如 天 文 之 煙 、 霞 、 風 、 雪, 地 理 之 江 、 山 、 塘 、 岸, 時 令 之 春 、 宵 、 曉 、 暮, 人 物 之 翁 、 僧 、 漁 、 樵, 花 木 之 花 、 柳 、 苔 、 萍, 鳥 獸 之 蜂 、 蝶 、 鶯 、 燕, 宮 室 之 臺 、 欄 、 軒 、 窗, 器 用 之 舟 、 船 、 壺 、 杖, 人 事 之 夢 、 憶 、 愁 、 恨, 衣 服 之 裙 、 袖 、 錦 、 綺, 飲 食 之 茶 、 漿 、 飲 、 酌, 身 體 之 鬚 、 眉 、 韻 、 態, 聲 色 之 紅 、 綠 、 香 、 豔, 文 史 之 騷 、 賦 、 題 、 吟, 數 目 之 一 、 三 、 雙 、 半, 皆 無 其 字。 《 千 字 文 》 且 然, 況 其 他 乎 ?
Dư thường tập chư pháp thiếp tự vi thi. Tự chi bất phức nhi đa giả, mạc thiện vu ”Thiên văn tự”, nhiên thi gia mục tiền thường dụng chi tự, do khổ kỳ vị bị. Như thiên văn chi yên, hà, phong, tuyết; địa lý chi giang, sơn, đường, ngạn; thời lệnh chi xuân, tiêu, hiểu, mộ; nhân vật chi ông, tăng, ngư, tiều; hoa mộc chi hoa, liễu, đài, bình; điểu thú chi phong, điệp, oanh, yên; cung thất chi đài, lan, hiên, song; khí dụng chi chu, thuyền, hồ, trượng; nhân sự chi mộng, ức, sầu, hận; y phục chi quần, tụ, cẩm, ỷ; ẩm thực chi trà, tương, ấm, chước; thân thể chi tu, mi, vận, thái; thanh sắc chi hồng, lục, hương, diễm; văn sử chi tao, phú, đề, ngâm; số mục chi nhất, tam, song, bán, giai vô kỳ tự. Thiên văn tự thả nhiên, huống kỳ tha hồ?
103. Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, người đẹp không nên thấy chết yểu.
花 不 可 見 其 落, 月 不 可 見 其 沈, 美 人 不 可 見 其 夭。
Hoa bất khả kiến kỳ lạc, nguyệt bất khả kiến kỳ thẩm, mỹ nhân bất khả kiến kỳ yểu.
104. Trồng hoa nên thấy khi hoa nở, đón trăng nên thấy lúc trăng tròn, viết sách nên thấy lúc hoàn thành, người đẹp nên thấy được vui vẻ, sung sướng, nếu không thì chỉ uổng công.
種 花 須 見 其 開, 待 月 須 見 其 滿, 著 書 須 見 其 成, 美 人 須 見 其 暢 適, 方 有 實 際。 否 則 皆 為 虛 設。
Chủng hoa tu kiến kỳ khai, đãi nguyệt tu kiến kỳ mãn, trước thư tu kiến kỳ thành, mỹ nhân tu kiến kỳ sướng đích, phương hữu thực tế. Phủ tắc giai vi hư thiết.
105. Huệ Thi(1) viết nhiều, sách ông chứa đến năm xe; Ngu Khanh(2) vì cảnh cùng sầu mà viết sách, sách của cả hai ông đều không truyền đến ngày nay. Không biết trong sách nói gì? Tôi không gặp được người xưa, làm sao mà không hận?
惠 施 多 方, 其 書 五 車 ; 虞 卿 以 窮 愁 著 書, 今 皆 不 傳。 不 知 書 中 果 作 何 語 ?我 不 見 古人,安 得 不 恨 ?
Huê Thi đa phương, kỳ thư ngũ xa, Ngu Khanh dĩ cùng sầu trứ thư, kim giai bất truyền. Bất tri thư trung quả tác hà ngữ? Ngã bất kiến cổ nhân, an đắc bất hận ?
106. Lấy hoa thông làm lương thực, lấy trái thông làm hương liệu, lấy cành thông làm chổi quét, lấy sóng lao xao trên ngọn thông làm tiếng trống. Ở trong núi mà có được hơn trăm cây thông lớn, thật là có thể dùng mãi không hết.
以 松 花 為 量, 以 松 實 為 香, 以 松 枝 為 麈 尾, 以 松 陰 為 步 障, 以 松 濤 為 鼓 吹。 山 居 得 喬 松 百 餘 章, 真 乃 受 用 不 盡。
Dĩ tùng hoa vi lương, dĩ tùng thực vi hương, dĩ tùng chi vi chủ vĩ, dĩ tùng âm vi bộ chướng, dĩ tùng đào vi cổ xúy. Sơn cư đắc kiều tùng bách dư chương, chân nãi thụ dụng bất tận.
107. Phép ngắm trăng : trắng tỏ nên ngẩng mà ngắm, trăng mờ nên cúi mà nhìn.
玩 月 之 法,皎 潔 則 仰 觀,朦 朧 則 宜 俯 視。
Ngoạn nguyệt chi pháp : hạo khiết tắc nghi ngưỡng quán, mông lung tắc nghi phủ thị.
108. Trẻ thơ chẳng biết một điều gì, mắt không phân biệt được vẻ đẹp xấu, tai không phân biệt được tiếng đục trong, mũi chưa phân biệt được mùi thơm thối; nhưng nếu vị đắng hay ngọt thì không những biết ngay mà biết chọn hay bỏ nữa. Cho nên dùng đồ ngon ngọt để dỗ con thì mặt mày hớn hở, hầu như chỉ do vậy mà thôi.
孩 提 之 童, 一 無 所 知。 目 不 能 辨 美 惡, 耳 不 能 判 清 濁, 鼻 不 能 別 香 臭。 至 若 味 之 甘 苦, 則 不 第 知 之, 且 能 取 之 棄 之。 告 子 以 甘 食 、 悅 色 為 性,殆 指 此 類 耳。
Hài đề chi đồng, nhất vô sở tri. Mục bất năng biện mỹ ố, nhĩ bất năng phán thanh trọc, tỵ bất năng biệt hương xú. Chí nhược vị chi cam khổ, tắc bất đệ tri chi, thả năng thủ chi khí chi. Cáo tử dĩ cam thực, duyệt sắc vi tính, đãi chỉ thử loại nhĩ.
109. Phàm việc không nên khắt khe, nhưng đọc sách thì không thể không khắc khe; việc không nên tham, nhưng mua sách không thể không tham; việc không nên đam mê, nhưng làm việc thiện không thể không đam mê.
凡 事 不 宜 刻, 若 讀 書 則 不 可 不 刻 ; 凡 事 不 貪, 若 買 書 則 不 可 不 貪 ; 凡 事 不 宜, 若 行 則 可 不 癡。
Phàm sự bất nghi khắc, nhược độc thư tắc bất khả bất khắc, phàm sự bất nghi tham, nhược mãi thư tắc bất khả bất tham, phàm sự bất nghi si, nhược hành thiện tắc bất khả bất si.
110. Rượu cũng tốt, nhưng chớ để vì say sưa mà gây gỗ; sắc cũng tốt, nhưng chớ để vì si mê mà làm tổn hại đến đời sống; tiền cũng tốt, nhưng chớ để vì tham lam làm mờ tối lương tâm; nóng giận cũng được nhưng chớ để vì không kìm chế mà vượt qua chữ lý.
酒 可 好, 不 可 罵 座 ; 色 可 好, 不 可 傷 生 ; 財 可 好, 不 可 昧 心 ; 氣 可 好, 不 可 越 理。
Tửu khả hảo, bất khả mạ tọa; sắc khả hảo; bất khả thương sinh; tài khả hảo bất khả muội tâm; khí khả hảo; bất khả việt lý.
111. Tên tuổi văn chương có thể sánh với việc thi đậu; tiết kiệm có thể sánh với tài sản; thanh nhàn có thể sánh với tuổi thọ.
文 名, 可 以 當 科 第 ; 儉 德, 可 以 當 貨 財 ; 清 閒,可 以 當 壽 考。
Văn danh khả dĩ đương khoa đệ, kiệm đức khả dĩ đương hóa tài, thanh nhàn khả dĩ đương thọ khảo.
112. Không chỉ ngâm thơ mà còn đọc sách người xưa là làm bạn với cổ nhân, còn xem chữ viết và tranh vẽ của người xưa là đến được nơi họ ở.
不 獨 誦 其 詩 讀 其 書, 是 尚 友 古 人 ; 即 觀 字, 亦 是 尚 友 古 人 處。
Bất độc tụng kỳ thi, độc kỳ thư, thị thượng hữu cổ nhân; tức quán kỳ tự họa, diệc thị thượng hữu cổ nhân xứ.
113. Bố thí vô ích, không gì bằng cúng thầy tu; thơ văn vô ích, không gì bằng lời chúc thọ.
無 益 之 施 捨, 莫 過 于 齋 僧 ; 無 益 之 詩 文, 甚 于 祝 壽。
Vô ích chi thí xả mạc quá ư trai tăng, vô ích chi thi văn mạc quá ư chúc thọ.
114. Vợ lẽ đẹp không bằng vợ chính hiền, tiền nhiều không bằng cảnh thuận.
妾 美 不 如 妻 賢 ; 錢 多 不 如 境 順。
Thiếp mỹ bất như thê hiền, tiền đa bất như cảnh thuận.
115. Xây am mới, không bằng tu sửa miếu cũ; đọc sách mới, không bằng ôn văn xưa.
創 新 庵, 不 若 修 古 廟 ; 讀 生 書,不 溫 業。
Sáng tân am bất nhược tu cổ miếu; độc sinh thư bất nhược ôn cựu nghiệp.
116. Chữ viết và hội họa cùng chung một nguồn gốc, cứ xem lục thư xuất phát từ chữ tượng hình thì đủ biết.
字 與 畫 同 出 一 源, 觀 六 書 始 於 象 形, 則 可 知 矣。
Tự dữ họa đồng xuất nhất nguyên. Quán lục thư thủy ư tượng hình, tắc khả tri dĩ.
117. Vườn của người bận rộn, nên bố trí gần nhà; vườn của người nhàn nhã, có xa cũng chẳng hề gì.
忙 人 園 亭, 宜 與 住 宅 相 連 ; 閒 人 園 亭, 不 妨 與 住 宅 相 遠。
Mang nhân viên đình, nghi dữ trú trạch tướng liên, nhàn nhân viên đình, bất phương dữ trú trạch tương viễn.
118. Rượu có thể thay trà, trà không thể thay rượu; thơ có thể thay văn, văn không thể thay thơ; khúc có thể thay từ, từ không thể thay khúc; trăng có thể thay đèn, đèn không thể thay trăng; bút có thể thay miệng, miệng không thể thay bút; tỳ thiếp có thể thay người hầu, người hầu không thể thay tỳ thiếp.
酒 可 以 當 茶, 茶 不 可 以 當 酒; 詩 可 以 當 文, 文 不 可 以 當 詩; 曲 可 以 當 詞, 詞 不 可 以 當 曲; 月 可 以 當 燈, 燈 不 可 以 當 月; 筆 可 以 當 口, 口 不 可 以 當 筆; 婢 可 以 當 奴,奴 不 可 以 當 婢。
Tửu khả dĩ đương trà, trà bất khả dĩ đương tửu; thi khả dĩ đương văn, văn bất khả dĩ đương thi; khúc khả dĩ đương từ, từ bất khả dĩ đương khúc; nguyệt khả dĩ đương đăng, đăng bất khả dĩ đương nguyệt; bút khả dĩ đương khẩu, khẩu bất khả dĩ đương bút; tỳ khả dĩ đương nô, nô bất khả dĩ đương tỳ.
119. Mối bất bình nhỏ trong lòng, có thể dùng rượu để nguôi đi; mối bất bình lớn trong đời, không dùng kiếm không sao nguôi được.
胸 中 小 不 平, 可 以 酒 消 之 ; 世 間 大 不 平, 非 劍 不 能 消 也。
Hung trung tiểu bất bình, khả dĩ tửu tiêu chi; thế gián đại bất bình, phi kiếm bất năng tiêu dã.
120. Bất đắc dĩ mà phải nịnh thì thà dùng miệng, không nên dùng bút; bất đắc dĩ mà phải mắng cũng thà dùng miệng, không nên dùng bút.
不 得 以 而 諛 之 者, 寧 以 口, 毋 以 筆 ; 不 可 耐 而 罵 之 者, 亦 寧 以 口,毋 以 筆。
Bất đắc dĩ nhi du chi giả, ninh dĩ khẩu, vô dĩ bút; bất khả nại nhi mạ chi giả, diệc ninh dĩ khẩu, vô dĩ bút.
121. Kẻ đa tình tất mê sắc, nhưng kẻ mê sắc chưa hẳn đã đa tình; hồng nhan ắt bạc mệnh, nhưng kẻ bạc mệnh chưa hẳn đã là khách hồng nhan; kẻ biết làm thơ ắt thích rượu, nhưng kẻ thích rượu chưa hẳn đã biết làm thơ.
多 情 者 必 好 色, 而 好 色 者 未 必 盡 屬 多 情 ; 紅 顏 者 必 薄 命, 而 薄 命 者 未 必 盡 屬 紅 顏 ; 能 詩 者 必 好 酒, 而 好 酒 者 未 必 盡 屬 能 詩。
Đa tình giả tất háo sắc, nhi háo sắc giả vị tất tận thuộc đa tình, hồng nhan giả tất bạc mệnh, nhi bạc mệnh giả vị tất tận thuộc hồng nhan; năng thi giả tất háo tửu, nhi háo tửu giả vị tất tận thuộc năng thi.
122. Mai khiến người cao nhã, lan khiến người trầm mặc, cúc khiến người bình dã, sen khiến người điềm đạm, xuân hải đường khiến người xinh đẹp, mẫu đơn khiến người hào sảng, chuối và trúc khiến người phong vận, thu hải đường khiến người kiều mỵ, thông khiến người phóng dật, ngô đồng khiến người thanh cao, liễu khiến người sầu cảm.
梅 令 人 高, 蘭 令 人 幽, 菊 令 人 野, 蓮 令 人 淡, 春 海 棠 令 人 艷, 牡 丹 令 人 豪, 蕉 與 竹 令 人 韻, 秋 海 棠 令 人 媚, 松 令 人 逸, 桐 令 人 清, 柳 令 人 感。
Mai linh nhân cao, lan linh nhân u, cúc linh nhân dã, liên linh nhân đạm, xuân hải đường linh nhân diễm, mẫu đan linh nhân hào, tiêu dữ trúc linh nhân vận, thu hải đường linh nhân mị, tùng linh nhân dật, đồng linh nhân thanh, liễu linh nhân cảm.
123. Vật có thể làm cảm động lòng người, thì trên trời không có gì bằng ánh trăng, trong âm nhạc không có gì bằng đàn cầm, trong động vật không có gì bằng chim quyên, trong thực vật không có gì bằng cây liễu.
物 之 能 感 人 者 : 在 天 莫 如 月, 在 樂 莫 如 琴, 在 動 物 莫 如 鵑, 在 植 物 莫 如 柳。
Vật chi năng cảm nhân giả, tại thiên mạc như nguyệt, tại lạc mạc như cầm, tại động vật mạc như điểu, tại thực vật mạc như liễu.
124. Vợ con làm lụy đến người, nên chuộng cảnh”mai thê hạc tử” của Hòa Tĩnh(3); nô tỳ cũng làm được việc, nên thích cảnh”tiều tỳ ngư nô” của Chí Hòa(4).
妻 子 頗 足 累 人, 羨 和 靖 梅 妻 鶴 子 ; 奴 婢 亦 能 供 職, 喜 志 和 樵 婢 漁 奴。
Thê tử phạ túc lụy nhân, tiển Hòa Tĩnh mai thê hạc tử; nô tỳ diệc năng cung chức, hỷ Chí Hòa tiều tỳ ngư nô.
125. Xem lướt sách vở tuy gọi là vô dụng, nhưng còn hơn là không hiểu chuyện cổ kim; thanh cao cố nhiên là tốt đẹp, nhưng không gì trì trệ hơn là chẳng hiểu thời vụ.
涉 獵 雖 曰 無 用, 猶 勝 于 不 通 古 今 ; 清 高 固 然 可 嘉, 莫 流 于 不 識 時 務。
Thiệp liệp tuy viết vô dụng, do thắng vu bất thông cổ kim; thanh cao cố nhiên khả gia, mạc lưu vu bất thức thời vụ.
126. Được gọi là mỹ nhân thì: mặt xinh như hoa, giọng như chim hót, tinh thần như trăng, dáng vẻ như liễu, xương cốt như ngọc, da trắng như băng tuyết, phong tư như nước mùa thu, trong lòng như thơ ca. Ta không còn chỗ nào chê được cả.
所 謂 美 人 者 : 以 花 為 貌, 以 鳥 為 聲, 以 月 為 神, 以 柳 為 態, 以 玉 為 骨, 以 冰 雪 為 膚, 以 秋 水 為 姿, 以 詩 詞 為 心。 吾 無 間 然 矣。
Sở vi mỹ nhân giả : dĩ hoa vi mạo, dĩ điểu vi thanh, dĩ nguyệt vi thần, dĩ liễu vi thái, dĩ ngọc vi cốt, dĩ băng tuyết vi phu, dĩ thu thủy vi tư, dĩ thi từ vi tâm. Ngô vô gián nhiên hỹ!
127. Có cái vui ẩn dật ở cảnh núi rừng mà không biết hưởng, đó là hạng đánh cá, đốn củi, hạng làm vườn và hạng thầy chùa; có cái vui với vườn tược, thê thiếp mà không biết hưởng, đó là hạng phú thương và hạng quan lớn.
有 山 林 隱 逸 之 樂, 而 不 知 享 者, 漁 樵 也, 農 圃 也, 緇 黃 也 ; 有 園 亭 姬 妾 之 樂, 而 不 能 享 、 不 善 享 者, 富 商 也, 大 僚 也。
Hữu sơn lâm ẩn dật chi lạc nhi bất tri hưởng giả, ngư tiều dã, nông phố dã, truy hoàng dã; hữu viên đình cơ thiếp chi lạc, nhi bất năng hưởng, bất thiện hưởng giả, phú thương dã, đại liêu dã.
128. Lê Cử nói :”Muốn đem hoa mai gả cho hải đường, đem cây cam làm bề tôi của anh đào, đem rau cải gả cho măng tre, có điều chúng lại chẳng sinh cùng thời.”. Tôi nói vật nào cũng có lứa đôi, phối hợp cũng phải có đạo lý, đem gán ghép vậy chưa hẳn đã tương xứng. Như mai là vật có phẩm hạnh rất thanh cao, hải đường lại là vật có tư chất cực kỳ xinh đẹp mà đỏng đảnh, dù có sinh cùng thời cũng không thể làm phu phụ, không bằng đem mai gả cho hoa lê, hải đường gả cho hạnh, đem chanh làm bề tôi phật thủ, đem lệ chi làm bề tôi anh đào, đem thu hải đường gả cho nhạn lai hồng thì cũng khá tương xứng. Còn đến như đem rau cải gả cho măng tre, nếu măng tre mà biết được ắt sẽ bị chịu cái lụy của sư tử Hà Đông.
黎 舉 云 : 「 欲 令 梅 聘 海 棠, 橙 子 臣 櫻 桃, 以 芥 嫁 筍, 但 時 不 同 耳。 」 予 謂 物 各 有 偶, 儗 必 於 倫, 今 之 嫁 娶, 殊 覺 未 當。 如 梅 之 為 物, 品 最 清 高; 棠 之 為 物, 姿 極 妖 艷。 即 使 同 時, 亦 不 可 為 夫 婦。 不 若 梅 聘 梨 花, 海 棠 嫁 杏, 櫞 臣 佛 手, 荔 枝 臣 櫻 桃, 秋 海 棠 嫁 雁 來 紅, 庶 幾 相 稱 耳。 至 若 以 芥 嫁 筍, 筍 如 有 知, 必 受 河 東 獅 子 之 累 矣。
Lê Cử vân :”Dục linh mai sính hải đường, tranh tử thần anh đào, dĩ giới giá duẩn, đãn thời bất đồng nhĩ.” Dư vị vật các hữu ngẫu, nghĩ tất ư luân, kim chi giá thú, thù giác vị đương. Như mai chi vi vật, phẩm tối thanh cao, đường chi vị vật, tư cực yêu diễm. Tức sử đồng thời, diệc bất khả vị phu phụ. Bất nhược mai sính lê hoa, hải đường giá hạnh, duyên thần Phật thủ, lệ chi thần anh đào, thu hải đường giá nhạn lai hồng, thứ kỷ tương xứng nhĩ. Chí nhược dĩ giới giá duẩn, duẩn như hữu tri, tất thụ Hà Đông sư tử chi lụy hỹ.
129. Ngũ sắc đều có khi thái quá có khi bất cập, chỉ có đen và trắng là không.
五 色 有 太 過,有 不 及,惟 黑 與 白 無 太 過。
Ngũ sắc hữu thái quá hữu bất cập, duy hắc dữ bạch vô thái quá.
130. Xem Thủy hử đến đoạn Lỗ Đạt đánh Trấn Quan Tây, Võ Tòng đánh cọp, nhân đó mà nghĩ con người ta tất phải có việc làm cực kỳ khoái ý như thế, mới không sống uổng một đời. Còn nếu không làm được việc đó, thì cũng nên viết sách tả được những điều đắc ý mới khỏi ân hận.
閱 《 水 滸 傳 》, 至 魯 達 打 鎮 關 西, 武 松 打 虎, 因 思 人 生 必 有 一 樁 極 快 意 事, 方 不 枉 在 生 一 場 ; 即 不 能 有 其 事, 亦 須 著 得 一 種 得 意 之 書, 庶 幾 無 憾 耳。
Duyệt ”Thủy hử truyện”, chí Lỗ Đạt đả Trấn Quan Tây, Võ Tòng đả hổ, nhân tư nhân sinh tất hữu nhất thung cực khoái ý sự, phương bất uổng sinh nhất trường. Tức bất năng hữu kỳ sự, diệc tu trước đắc nhất chủng đắc ý chi thư, thứ cơ vô hám nhĩ.
131. Gió xuân lâng lâng như rượu, gió hè sảng khoái như trà, gió thu mênh mang như khói, gió đông giá buốt như gừng, cải.
春 風 如 酒, 夏 風 如 茗, 秋 風 如 煙, 冬 風 如 薑 芥。
Xuân phong như tửu, hạ phong như mính, thu phong như yên, như khương giới.
132. Hoa văn xù nhám trông cực nhã, nhưng nên mảnh không nên dày; nếu dùng làm song cửa thì thực khó coi.
冰 裂 紋 極 雅, 然 宜 細, 不 宜 肥。 若 以 之 作 窗 欄, 殊 不 耐 觀 也。
Băng liệt văn cực nhã, nhiên nghi tế, bất nghi phì. Nhược dĩ chi tác song lan, thù bất nại quán dã.
133. Những chim có tiếng hót cực hay thì họa mi là nhất, kế đó là hoàng anh, rồi tới bách thiệt. Có điều hoàng anh , bách thiệt trong đời chưa có ai nuôi được trong lồng cả, cơ hồ là bạn lứa của bậc cao sĩ, chỉ có thể cho nghe hót chứ không chịu khuất phục.
鳥 聲 之 最 佳 者 : 畫 眉 第 一, 黃 鸝 、 百 舌 次 之。 然 黃 鸝 、 百 舌, 世 未 有 籠 而 畜 之 者,其 殆 高 士 之 儔,可 聞 而 不 可 屈 者 耶。
Điểu thanh chi tối giai giả, họa mi đệ nhất, hoàng ly, bá thiệt thứ chi. Nhiên hoàng ly, bá thiệt, thế vị hữu lung nhi súc chi giả, kỳ đãi cao sĩ chi trù, khả văn nhi bất khả khuất giả da.
134. Không gầy sản nghiệp, về sau ắt lụy đến người; chỉ thích giao du, về sau ắt lụy đến ta.
不 治 生 產,其 後 必 致 累 人; 專 務 交 遊,其 後 必 致 累 己。
Bất trị sinh sản, kỳ hậu tất trí lụy nhân; chuyên vụ giao du, kỳ hậu tất trí lụy kỷ.
135. Kẻ khéo đọc sách thì chẳng có gì không là sách : sơn thủy cũng là sách, hoa nguyệt cũng là sách. Kẻ khéo du ngoạn sơn thủy thì chẳng có gì không là sơn thủy : sử sách cũng là sơn thủy, thơ rượu cũng là sơn thủy, hoa nguyệt cũng là sơn thủy.
善 讀 書 者, 無 之 而 非 書 : 山 水 亦 書 也, 棋 酒 亦 書 也, 花 月 亦 書 也。 善 遊 山 水 者, 無 之 而 非 山 水 : 書 史 亦 山 水 也, 詩 酒 亦 山 水 也, 花 月 亦 山 水 也。
Thiện độc thư giả vô chi nhi phi thư : sơn thủy diệc thư dã, kỳ tửu diệc thư dã, hoa nguyệt diệc thư dã, thiện du sơn thủy giả, vô chi nhi phi sơn thủy, thư sử diệc sơn thủy dã, thi tửu diệc sơn thủy dã, hoa nguyệt diệc sơn thủy dã.
136. Vườn đẹp ở chỗ bố trí gò hang, chứ không phải ở chỗ chạm trổ chi li; đi xem cảnh vườn nhà người, thấy trên đầu tường cẩn gạch khảm ngói, không phải là không cực kỳ tinh xảo, nhưng sau khi hư hỏng thì rất khó lòng sửa lại, sao bằng cái đẹp chất phác tự nhiên?
園 亭 之 妙 在 邱 壑 布 置, 不 在 雕 繪 瑣 屑。 往 往 見 人 家 園 亭, 屋 脊 牆 頭, 雕 磚 鏤 瓦。 非 不 窮 極 工 巧, 然 未 久 即 壞, 壞 後 極 難 修 葺。 是 何 如 樸 素 之 為 佳 乎?
Viên đình chi diệu tại khâu hác bố trí, bất tại điêu hội tỏa tiết. Vãng vãng kiến nhân gia viên tử ốc tích tường đầu, điêu chuyên lũ ngõa, phi bất cùng cực công xảo, nhiên vị cửu tức hoại, hoại hậu cực nan tu tập, thị hà như phác tố chi vi giai hồ?
137. Đêm thanh ngồi cô độc, mời trăng kể lể chuyện buồn; canh khuya ngủ một mình, gọi dế tỏ niềm sầu hận.
清 宵 獨 坐,邀 月 言 愁; 良 夜 孤 眠, 呼 蛩 語 恨。
Thanh tiêu độc tọa, yêu nguyệt ngôn sầu; lương dạ cô miên, hô cung ngữ hận.
138. Tên quan mà nghe qua dư luận, thì miệng kẻ giàu có với miệng kẻ bần cùng đều không chắc đâu là thật; án xử mà đã định sẵn trong lòng, thì lời bàn hoa mỹ với lời bình thô lậu chỉ e đánh mất điều chân.
官 聲 採 於 輿 論, 豪 右 之 口 與 寒 乞 之 口, 俱 不 得 其 真; 花 案 定 於 成 心, 艷 媚 之 評 與 寢 陋 之 評,概 恐 失 其 實。
Quan thanh thái ư dư luận, hào hữu chi khẩu, dữ hàn khất chi khẩu, câu bất đắc kỳ chân; hoa án định ư thành tâm, diễm mị chi bình, dữ tẩm lậu chi bình, khái khủng thất kỳ thực.
139. Trong bụng có chứa gò hang thì thành thị chẳng khác sơn lâm; cảm hứng gởi chốn yên hà, thì Diêm Đề(5) cũng như Bồng Đảo(6).
胸 藏 邱 壑, 城 市 不 異 山 林 ; 興 寄 煙 霞,閻 浮 有 如 蓬 島。
Hung tàng khâu hác, thành thị bất dị sơn lâm; hứng ký yên hà, Diêm Phù hữu như Bồng Đảo.
140. Ngô đồng là loài có phẩm hạnh thanh cao trong thực vật, nhưng hình thù của nó khiến nhiều người kiêng kỵ; thậm chí còn nói :”Ngô đồng to bằng miệng đấu, chủ nhân ra ngoài bôn tẩu”, xem nó như vật bất tường. Chuyện bẻ cành ngô đồng phong đất cho em(7), chỉ có ngô đồng trong cung mới có thể biết, thế mà xét về mặt tồn tại lâu dài thì không có triều đại nào hơn được nhà Chu. Lời của thói tục (chê cây ngô đồng) không đủ để làm bằng cứ, cũng giống như loại cây này vậy.
梧 桐 為 植 物 中 清 品, 而 形 家 獨 忌 之, 甚 且 謂 「 梧 桐 大 如 斗, 主 人 往 外 走。 」 若 竟 視 為 不 祥 之 物 也 者。 夫 翦 桐 封 弟, 其 為 宮 中 之 桐 可 知。 而 卜 世 最 久 者, 莫 過 於 周。 俗 言 之 不 足 據, 類 如 此 夫 !
Ngô đồng vi thực vật trung thanh phẩm, nhi hình gia độc kỵ chi, thậm thư vị ”Ngô đồng đại nhưđẩu, chủnhân vãng ngoại tẩu.” Nhược cánh thị vi bất tường chi vật dã giả. Phù tiễn đồng phong đệ, kỳ vi cung trung chi đồng khả tri. Nhi bốc thế tối cửu giả, mạc quá ư Chu. Tục ngôn chi bất túc cứ, loại như thử phù!
141. Kẻ đa tình không vì sinh tử mà thay lòng; kẻ thích rượu không vì nóng lạnh mà đổi tửu lượng, người khéo đọc sách không vì bận rỗi mà sáng tác vụng về.
多 情 者, 不 以 生 死 易 心; 好 飲 者, 不 以 寒 暑 改 量; 喜 讀 書 者, 不 以 忙 閒 作 輟。
Đa tình giả bất dĩ sinh tử dịch tâm, háo ẩm giả bất dĩ hàn thử cải lượng, hỷ độc thư giả bất dĩ mang nhàn tác chuyết.
142. Nhện là nước thù địch của bướm, lừa là nước chư hầu của ngựa.
蛛 為 蝶 之 敵 國, 驢 為 馬 之 附 庸。
Thù vi điệp chi địch quốc, lư vi mã chi phụ dung.
143. Lập phẩm hạnh, nên noi người Tống mà phát huy đạo học(8); sống với đời, nên theo đời Tấn mà học cách phong lưu(9).
立 品, 須 發 乎 宋 人 之 道 學 ; 涉 世, 須 參 以 晉 代 之 風 流。
Lập phẩm, tu phát hồ Tống nhân chi đạo học, thiệp thế, tu tham dĩ Tấn đại chi phong lưu.
144. Người xưa nói cầm thú cũng biết đến nhân luân. Tôi nói đâu chỉ cầm thú, cả thảo mộc cũng vậy. Mẫu đơn là vua, thược dược là tể tướng, đó là vua tôi vậy; cây kiều ở núi Nam, cây tử(10) ở núi Bắc, đó là cha con vậy; nghe nói cây kinh(11) chia ra thì chết, để nguyên bụi thì sống, đó là anh em vậy; sen mọc cùng đài, đó là vợ chồng vậy; hoa lan cùng nhụy, đó là bè bạn vậy.
古 謂 禽 獸 亦 知 人 倫。 予 謂 匪 獨 禽 獸 也, 即 草 木 亦 復 有 之。 牡 丹 為 王, 芍 藥 為 相, 其 君 臣 也; 南 山 之 喬, 北 山 之 梓, 其 父 子 也; 荊 之 聞 分 而 枯, 聞 不 分 而 活, 其 兄 弟 也; 蓮 之 並 蒂, 其 夫 婦 也; 蘭 之 同 心, 其 朋 友 也。
Cổ vị cầm thú diệc tri nhân luân. Dữ vị phi độc cầm thú dã, tức thảo mộc diệc phục hữu chi. Mẫu đơn vi vương, thược dược vi tướng, kỳ quân thần dã; nam sơn chi kiều, bắc sơn chi tử, kỳ phụ tử dã; kinh chi văn phân nhi khô, văn bất phân nhi hoạt, kỳ huynh đệ dã; liên chi tính đế, kỳ phu phụ dã; lan chi đồng tâm, kỳ bằng hữu dã.
145. Hào kiệt khác với thánh hiền, văn nhân nhiều hơn tài tử.
豪傑易于聖賢,文人多於才子。
Hào kiệt dị vu thánh hiền, văn nhân đa ư tài tử.
146. Trâu với ngựa : một nhập thế, một ẩn dật; nai với lợn : một thần tiên, một phàm phu.
牛與馬,一仕而一隱也; 鹿與豕,一 仙 而 一凡也。
Ngưu dữ mã, nhất sĩ nhi nhất ẩn dã; lộc dữ thỉ, nhất tiên nhi nhất phàm dã.
147. Văn chương tuyệt đỉnh cổ kim đều được viết bằng máu và nước mắt.
古今至文,皆以血淚所成。
Cổ kim chí văn, giai huyết lệ sở thành.
148. Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn.
情之一字,所以維持世界; 才之一字, 所 以 粉 飾 乾 坤。
Tình chi nhất tự, sở dĩ duy trì thế giới, tài chi nhất tự, sở dĩ phấn sức kiền khôn.
149. Khổng Tử sinh ở Trần Lỗ, Trần đó là phương sống, cho nên lễ nhạc văn chương(12), đạo lý đó từ không mà thành có; Thích Ca sinh ở Tây phương, Tây là đất chết, cho nên thọ tưởng hành thức(13), lời giáo hóa từ có hóa thành không.
孔子生 於 東 魯,東 者 生 方。故 禮 樂 文章,其 道 皆 自 無 而 有。 釋 迦 生 於 西 方,西 者 死 地。 故 受 想 行 識,其 教 皆 自 有 而 無。
Khổng Tử sinh ư Đông Lỗ, đông giả sinh phương. Cố lễ nhạc văn chương, kỳ đạo giai tự vô nhi hữu. Thích Ca sinh ư Tây phương, tây giả tử địa. Cố thụ tưởng hành thức, kỳ giáo giai tự hữu nhi vô.
150. Có non xanh rồi mới có nước biếc, nước mượn sắc ở non; có rượu ngon rồi mới có thơ hay, thơ mượn thần ở rượu.
有 青 山 方 有 綠 水,水 惟 借 色 於 山; 有 美 酒 便 有 佳 詩,詩 亦 乞 靈 於 酒。
Hữu thanh sơn phương hữu lục thủy, thủy duy tá sắc ư sơn; hữu mỹ tửu tiện hữu giai thi, thi diệc khất linh ư tửu.
Chú thích:
(1) Triết gia thời Chiến Quốc, bạn với Trang Tử. Tương truyền sách ông viết chất đầy cả năm xe.
(2) Du sĩ thời Chiến Quốc, ông mang dép mo, áo tơi đến du thuyết Hiếu Thành Vương nước Triệu. Yết kiến lần thứ nhất được nhà vua cho trăm dật vàng, một đôi ngọc bạch bích. Yết kiến lần thứ hai được làm thượng khanh nước Triệu, cho nên hiệu là Ngu Khanh
(3) Tức Lâm Bô, nhà thơ đời Bắc Tống, được gọi là "Tây Hồ ẩn sĩ". Ống một mình ở Tây Hồ, nuôi hạc trồng mai, và thường bảo lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con.
(4) Tức Trương Chí Hòa, nhà thơ Trung Đường, sống tự tại trong cảnh ngư tiều, xem cảnh đốn củi và câu cá như là những con hầu tỳ thiếp của mình, ông có bài Ngư Phủ ca.
(5) Cảnh trần gian, theo nhà Phật.
(6) Nơi ở của thần tiên, theo truyền thuyết Trung Quốc
(7) Sử ký chép vua Chu Thành Vương lúc vui đùa với em là Thúc Ngu, bẻ lá ngô đồng đưa cho em nói đùa: “Phong cho ngươi đất Đường đấy”. Quan thái sử đứng hầu xin vua chọn ngày để làm lễ. Thành Vương nói “ Ta đùa đấy mà”. Quan thái sử tâu : “Làm vua không được nói đùa”. Vua bèn phong đất Đường cho em.
(8) Vào đời Tống, Trung Quốc phát triển đạo học rất mạnh, với những tên tuổi như Chu Liêm Khê. Trình Di, Trình Hạo, Lục Tượng Sơn, Chu Hy …
(9) Vào đời Tấn, phong trào sống phong lưu nhàn nhã nổi bật với các tên tuổi : Đào Uyên Minh, Trúc Lâm thất hiền ..
(10) Cây tử dùng để đóng đàn; còn tượng trưng cho con
(11) Cây gai, một loài cây thuộc họ Rubus, thường mọc thành từng bụi rải rác ở gò, đồi.
(12) Dùng thi ca văn chương để mở rộng kiến thức, hàm dưỡng tâm linh, và dùng lễ để ước thúc con người (bác văn ước lễ), đó là cách giáo hóa của Nho giáo.
(13) Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) chính là 5 yếu tố tích tụ lại mà tạo ra xác thân con người. "Sắc" là hình thể . "Thụ" là cái mình cảm nhận. "Tưởng" là tư tưởng. "Hành" là hành động, hành vi. "Thức" là tri thức, sự hiểu biết. Đây là các khái niệm cơ bản của Phật giáo..
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Thập diện mai phục
-
Mấy hôm nay cũng tò mò về mấy bài thơ đoạt giải trên phây búc, nhưng bận quá tìm chưa ra. Hôm nay mới đọc được cái này của Trần Mạnh Hảo v...
-
Trong " Đại lễ bế mạc event Mùa Thu" năm 2012 của TAL cụ HVN đáng kính của Đê Tiện Trấn có phát biểu một câu chân tình như thế n...
-
Có những mùa hoa trắng tinh khôi Em mặc áo thơm tho mùi bạch cúc Bước ngang phố cõi lòng ai thoát tục Ai trả cho tôi một chút điệu đà?
-
Mai em đi cùng tháng ngày mưa nắng Để lòng tôi về thắp nén nhang buồn Những sợi khói dắt nhau về tự tử Hương nhớ nào cứ hun hút bay ...