Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012

Trương Triều - U Mộng Ảnh (phần 3)

U mộng ảnh
.
31. Chiêu Quân do cuộc hòa thân mà được nổi tiếng, Lưu Phần(1) vì đi thi hỏng mà được lưu truyền, có thể cho đó là điều bất hạnh, nhưng không thể xem là chuyện thiệt thòi được.
昭 君 以 和 親 而 顯, 劉 蕡 以 下 第 而 傳 ; 可 謂 之 不 幸, 不 可 為 之 缺 陷。
Chiêu Quân dĩ hòa thân nhi hiển, Lưu Phần dĩ hạ đệ nhi truyền; khả vị chi bất hạnh, bất khả vi chi khuyết hãm.
32. Lấy lòng yêu hoa mà yêu người đẹp, tất cảm nhận được cái thú vị dạt dào; lấy lòng yêu người đẹp mà yêu hoa, tất trong cái thâm tình còn tăng thêm lòng chở che mến tiếc.
以 愛 花 之 心 愛 美 人, 則 領 略 自 饒 別 趣 ; 以 愛 美 人 之 心 愛 花, 則 護 惜 倍 有 深 情。
Dĩ ái hoa chi tâm ái mỹ nhân, tắc lĩnh lược tự nhiêu biệt xúc; dĩ ái mỹ nhân chi tâm ái hoa, tắc hộ tích bội hữu thâm tình.
33. Mỹ nhân hơn hoa ở chỗ biết nói, hoa hơn mỹ nhân ở điểm tỏa hương. Nếu không thể chọn được cả hai thì bỏ cái tỏa hương mà chọn cái biết nói vậy.
美 人 之 勝 於 花 者, 解 語 也 ; 花 之 勝 於 美 人 者, 生 香 也。 二 者 不 可 得 兼, 舍 生 香 而 解 語 者 也。
Mỹ nhân chi thắng ư hoa giả, giải ngữ dã; hoa chi thắng ư mỹ nhân giả, sinh hương dã. Nhị giả bất khả đắc kiêm, xả sinh hương nhi thủ giải ngữ giả dã.
34. Người ở bên trong song cửa viết chữ lên song cửa, ta đứng ở ngoài nhìn, cảnh ấy cực đẹp.
窗 內 人 於 窗 紙 上 作 字, 吾 於 窗 外 觀 之, 極 佳。
Song nội nhân ư chỉ song thượng tác tự, ngô ư song ngoại quán chi, cực giai.
35. Thiếu niên đọc sách như nhòm trăng qua khe hở, trung niên đọc sách như đứng giữa sân ngắm trăng, lão niên đọc sách như lên đài cao thưởng trăng, đều do kinh nghiệm lịch duyệt nông sâu khác nhau mà sở đắc cũng nông sâu khác nhau.
少 年 讀 書, 如 隙 中 窺 月 ; 中 年 讀 書, 如 庭 中 望 月 ; 老 年 讀 書, 如 臺 上 玩 月。 皆 以 閱 歷 之 淺 深, 為 所 得 之 淺 深 耳。
Thiếu niên độc thư như khích trung khuy nguyệt; trung niên độc thư như đình trung vọng nguyệt; lão niên độc thư như đài thượng ngoạn nguyệt; giai dĩ duyệt lịch chi thiển thâm, vi sở đắc chi thiển thâm nhĩ.
36. Tôi muốn gởi thư cho Thần Mưa mà nói rằng: mùa xuân nên cho mưa ở sau tiết Thượng Nguyên(2), mưa trong vòng mười ngày trước tiết Thanh Minh(3), rồi mưa cho đến tiết Cốc Vũ(4); mùa hè nên cho mưa trước ngày thượng huyền và sau ngày hạ huyền(5); mùa thu nên cho mưa trong vòng hai tuần trước và sau giai đoạn mạnh thu(6); còn ba tháng mùa đông bất tất phải mưa nữa.
吾 欲 致 書 雨 師 : 春 雨, 宜 始 於 上 元 g 節 g 後, 至 清 明 十 日 前 之 內, 及 穀 雨 節 中 ; 夏 雨, 宜 于 每 月 上 弦 之 前, 及 下 弦 之 後 ; 秋 雨, 宜 于 孟 秋 、 季 秋 之 上 下 二 旬 ; 至 若 三 冬,正 可 不 必 雨 也。
Ngô dục trí thư vũ sư : xuân vũ, nghi thủy ư Thượng Nguyên tiết hậu, chí Thanh Minh thập nhật tiền chi nội, cập Cốc Vũ tiết trung; hạ vũ, nghi ư mỗi nguyệt thượng huyền chi tiền, cập hạ huyền chi hậu; thu vũ, nghi ư mạnh thu chi thượng hạ nhị tuần; chí nhược tam đông, chính khả bất tất vũ dã.
37. Giàu mà ô trọc không bằng nghèo mà thanh cao, sống mà khổ sở không bằng chết mà sung sướng.
為 濁 富 不 若 為 清 貧 ; 以 憂 生 不 若 以 樂 死。
Vi trọc phú bất nhược vi thanh bần, dĩ ưu sinh bất nhược dĩ lạc tử.
38. Trong thiên hạ chỉ có ma quỷ là có phúc nhất : lúc còn sống không một xu dính túi, nhưng sau khi chết mỗi khi cúng thì đều có tiền giấy; trong thiên hạ chỉ có ma quỷ là được coi trọng nhất : lúc còn sống có thể bị khinh bỉ làm nhục, nhưng sau khi chết lại có lắm người quỳ lạy lễ bái.
天 下 唯 鬼 最 富 : 生 前 囊 無 一 文, 死 後 每 饒 楮 鏹 ; 天 下 唯 鬼 最 尊, 生 前 或 受 欺 凌,死 後 必 多 跪 拜。
Thiên hạ duy quỷ tối phúc, sinh tiền nang vô nhất văn, tử hậu mỗi nhiêu chử cường; thiên hạ duy quỷ tối tôn, sinh tiền hoặc thụ khi lăng, tử hậu tất đa quỵ bái.
39. Bướm là hóa thân của tài tử, hoa là biệt hiệu của mỹ nhân.
蝶 為 才 子 之 化 身, 花 乃 美 人 之 別 號。
Điệp vi tài tử chi hóa thân, hoa nãi mỹ nhân chi biệt hiệu.
40. Nhân tuyết mà nhớ tới cao sĩ, nhân hoa mà nhớ tới mỹ nhân, nhân rượu mà nhớ tới hiệp khách, nhân trăng mà nhớ tới bạn hiền, nhân sơn thủy mà nhớ tới thơ văn đắc ý.
因 雪 想 高 士, 因 花 想 美 人, 因 酒 想 h 俠 h 客, 因 月 想 好 友, 因 山 水 想 得 意 詩 文。
Nhân tuyết tưởng cao sĩ; nhân hoa tưởng mỹ nhân; nhân tửu tưởng hiệp khách; nhân nguyệt tưởng hảo hữu; nhân sơn thủy tưởng đắc ý thi văn.
41. Nghe tiếng ngỗng kêu mà ngỡ ở Bạch Môn(7), nghe tiếng chèo ghe mà ngỡ ở Tam Ngô(8), nghe tiếng thác chảy mà ngỡ ở Triết Giang(9), nghe tiếng nhạc ngựa mệt mỏi mà ngỡ đang trên đường giữa chốn Trường An(10).
聞 鵝 聲, 如 在 白 門 ; 聞 櫓 聲, 如 在 三 吳 ; 聞 灘 聲, 如 在 浙 江 ; 聞 羸 馬 項 下 鈴 鐸 聲, 如 在 長 安 道 上。
Văn nga thanh như tại Bạch Môn; văn lỗ thanh như tại Tam Ngô; văn than thanh như tại Triết Giang; văn luy mã hạng hạ linh đạc thanh, như tại Trường An đạo thượng.
42. Tiết trong năm thì Thượng Nguyên là nhất, kế đến là Trung Thu, rồi mới đến Đoan Ngọ và Trùng Cửu.
一 歲 諸 節, 以 上 元 為 第 一, 中 秋 次 之, 五 日 、 九 日 又 次 之。
Nhất tuế chi tiết, dĩ Thượng Nguyên vi đệ nhất, Trung Thu thứ chi, Ngũ nhật, Cửu nhật hựu thứ chi.
43. Mưa là thứ có thể làm cho ngày ngắn lại, đêm dài ra.
雨 之 為 物, 能 令 晝 短, 能 令 夜 長。
Vũ chi vi vật, năng linh trú đoản, năng linh dạ trường.
44. Những môn ngày xưa không còn truyền đến nay : thổi tiêu, kiếm thuật, đánh cờ và đá cầu.
古 之 不 傳 於 今 者, 嘯 也,、 劍 術 也, 彈 棋 也,、 打 球 也。
Cổ chi bất truyền ư kim giả, tiêu dã, kiếm thuật dã, đàn kỳ dã, đả cầu dã.
45. Thầy tu mà làm thơ, nhiều khi có, đạo sĩ mà biết làm thơ là điều hiếm thấy, vì sao nhỉ?
詩 僧 時 復 有 之, 若 道 士 之 能 詩, 不 啻 空 谷 足 音, 何 也 ?
Thi tăng thời phục hữu chi, nhược đạo sĩ chi năng thi giả, bất xí không cốc tú âm, hà dã?
46. Nên làm cỏ huyên trong loài hoa chứ không làm đổ quyên trong loài chim(11).
當 為 花 中 之 萱 草, 毋 為 鳥 中 之 杜 鵑。
Đương vi hoa trung chi huyên thảo, vô vi điểu trung chi đỗ quyên.
47. Con gái từ tuổi mười bốn đến hai mươi bốn, trong khoảng ấy, bất kể là Yên, Tần, Ngô, Việt, phần lớn giọng nói đều ngọt ngào yểu điệu làm cảm động được lòng người. Mới gặp mặt mà lòng yêu ghét đã phân rõ ràng. Tai nghe không bằng mắt thấy, càng tin thêm điều này.
女 子 自 十 四 、 五 歲, 至 二 十 四 、 五 n g 歲, 此 十 年 中, 無 論 燕 、 秦 、 吳 、 越, 其 音 大 都 嬌 媚 動 人 ; 一 賭 其 貌, 則 美 惡 判 然 矣。 耳 聞 不 如 目 見,於 此 益 信。
Nữ tử tự thập tứ ngũ tuế chí nhị thập tứ ngũ tuế, thử thập niên trung, vô luận Yên, Tần, Ngô, Việt, kỳ âm đại đô kiều mị động nhân. Nhất đỗ kỳ mạo, tắc mỹ ố phán nhiên hỹ. Nhĩ văn bất như mục kiến, ư thử ích tín.
48. Tìm cảnh an lạc thì nên học tiên, lánh chốn khổ đau thì nên học Phật. Phật gia có”thế giới Cực lạc”, là nói đến chỗ mà mọi khổ não đều không đến được.
尋 樂 境 乃 學 仙, 避 苦 趣 乃 學 佛。 佛 家 所 謂 「 極 樂 世 界 」 者, 蓋 謂 眾 苦 之 所 不 到 也。
Tầm lạc cảnh nãi học Tiên, tỵ khổ xúc nãi học Phật. Phật gia sở vị ”Cực lạc thế giới” giả, cái vị chúng khổ chi sở bất đáo dã.
49. Giàu sang mà vất vả, không bằng nghèo hèn mà thanh nhàn; nghèo hèn mà kiêu ngạo, không bằng giàu sang mà khiêm cung.
富 貴 而 勞 悴, 不 若 安 閒 之 貧 賤 ; 貧 賤 而 驕 傲, 不 若 謙 恭 之 富 貴。
Phú quý nhi lao tụy, bất nhược an nhàn chi bần tiện; bần tiện nhi kiêu ngạo, bất nhược khiêm cung chi phú quý.
50. Mắt không tự thấy, mũi không tự ngửi, lưỡi không tự nếm, tay không tự sờ, chỉ có tai tự nghe được tiếng mình.
目 不 能 自 見, 鼻 不 能 自 嗅, 舌 不 能 自 舐, 手 不 能 自 握, 惟 耳 能 自 聞 其 聲。
Mục bất năng tự kiến, tỵ bất năng tự khứu, thiệt bất năng tự thỉ, thủ bất năng tự ác, duy nhĩ năng tự văn kỳ thanh.
51. Âm thanh nên nghe từ xa, riêng tiếng đàn cầm nghe xa gần đều được.
凡 聲 皆 宜 遠 聽, 惟 聽 琴 則 遠 近 皆 宜。

Phàm thanh giai nghi viễn thính, duy thính cầm viễn cận giai nghi.
52. Mắt không đọc được chữ, còn buồn hơn cả bị mù; tay không cầm được bút, còn khổ hơn cả bị câm.
目 不 能 識 字, 其 悶 尤 過 於 盲 ; 手 不 能 執 管, 其 苦 更 甚 於 啞。
Mục bất năng thức tự, kỳ muộn vưu quá ư manh; thủ bất năng chấp quản, kỳ khổ cánh thậm ư á.
53. Chụm đầu họa thơ, bá cổ luận văn, trong cung ứng chế, đi sứ chư hầu, đó đều là những việc cực khoái trong nhân gian.
並 頭 聯 句 、 交 頸 論 文 、 宮 中 應 制 、 歷 使 屬 國, 皆 極 人 間 樂 事。
Tính đầu liên cú, giao cảnh luận văn, cung trung ứng chế, lịch sứ thuộc quốc, giai cực nhân gian lạc sự.
54. Hoa đẹp đáng để mắt tới, mà còn có hương thơm là : mai, cúc, lan, thủy tiên, chu lan, mộc hương, mai côi, lạp mai; còn các loại hoa khác chỉ có mỗi cái đáng xem mà thôi.
花 之 宜 於 目, 而 復 宜 於 鼻 者 : 梅 也 、 菊 也 、 蘭 也 、 水 仙 也 、 珠 蘭 也 、 木 香 也 、 玫 瑰 也 、 蠟 梅 也, 餘 則 皆 宜 於 目 者 也。

Hoa chi nghi ư mục, nhi phục nghi ư tỵ giả : mai dã, cúc dã, lan dã, thủy tiên dã, châu lan mộc hương dã, mai côi dã, lạp mai dã; dư tắc giai nghi ư mục giả dã.
55. Hoa và lá đều đáng để ngắm nhìn : trước hết là thu hải đường, kế đó là sen, rồi mới đến hải đường, đồ kiềm, ngu mỹ nhân. Lá đẹp hơn hoa, chỉ có nhạn lai hồng, mỹ nhân tiêu mà thôi. Hoa và lá đều chẳng đáng xem: đó là tử vi và tân di.
花 與 葉 俱 可 觀 者 : 秋 海 棠 為 最, 荷 次 之, 海 棠 、 酴 醾 、 虞 美 人 、 水 仙 又 次 之。 葉 勝 於 花 者, 止 雁 來 紅 、 美 人 蕉 而 已。 花 與 葉 俱 不 足 觀 者 : 紫 薇 也 、 辛 夷 也。
Hoa dữ diệp câu khả quán giả, thu hải đường vi tối; hà thứ chi; hải đường, đồ kiềm, ngu mỹ nhân, thủy tiên, hựu thứ chi. Diệp thắng ư hoa giả, chỉ nhạn lai hồng, mỹ nhân tiêu nhi dĩ. Hoa dữ diệp câu bất túc quán giả : tử vi dã, tân di dã.
56. Kẻ có lời nói cao kỳ chốn núi rừng thì không thể khéo bàn chuyện phố thị được; lấy đó mà xét thì các loại sách như ”Sử ký” và ”Hán Thư” đều nên bỏ đi đừng đọc, vì chúng cũng chỉ bàn đến chuyện phố thị thời xưa.
高 語 山 林 者, 輒 不 善 談 市 朝 事。 審 若 此, 則 當 並 廢 《 史 》 、 《 漢 》 諸 書 而 不 讀 矣。 蓋 諸 書 所 載 者, 皆 古 之 市 朝 也。
Cao ngữ sơn lâm giả, triếp bất hỷ đàm thị triều sự. Thẩm nhược thử, tắc đương tính phế ”Sử” “Hán” chư thư nhi bất độc hỹ. Cái chư thư sở tải giả, giai cổ chi thị triều dã.
57. Mây là vật biến hóa : hoặc cao chót vót như núi, hoặc mênh mông như nước, hoặc giống như người như thú, hoặc gióng như lông chim vảy cá. Cho nên mọi thứ trong thiên hạ đều có thể vẽ được, duy mây thì không. Cái gọi là vẽ mây, chỉ là cách nói gượng mà thôi.
雲 之 為 物 : 或 崔 巍 如 山, 或 瀲 灩 如 水, 或 如 人, 或 如 獸, 或 如 鳥 毳, 或 如 魚 鱗。 故 天 下 萬 物 皆 可 入 畫, 惟 雲 不 能 畫。 世 所 畫 雲, 亦 強 名 耳。
Vân chi vi vật, hoặc thôi nguy như sơn; hoặc liễm diễm như thủy; hoặc như nhân; hoặc như thú; hoặc như điểu thúy; hoặc như ngư lân; cố thiên hạ vạn vật giai khả họa, duy vân bất năng họa, thế sở họa vân diệc cưỡng danh nhĩ.
58. Sống ở thời thái bình, sinh ra ở chốn hồ núi, quan địa phương thanh liêm, gia đình êm ấm, con cái thông minh, đời người được như thế có thể gọi là toàn phúc.
值 太 平 世, 生 湖 山 郡, 官 長 廉 靜, 家 道 優 裕, 娶 婦 賢 淑, 生 子 聰 慧。 人 生 如 此, 可 云 全 福。
Trị thái bình thế, sinh hồ sơn quận, quan trường liêm tĩnh, gia đạo ưu dụ, thú phụ hiền thục, sinh tử thông tuệ. Nhân sinh như thử, khả vân toàn phúc.
59. Nuôi hoa trong bình, thì các vẻ cao thấp nhỏ lớn của bình nên cùng hoa tương xứng, nhưng màu sắc đậm nhạt thì nên cùng hoa tương phản.
養 花 膽 瓶, 其 式 之 高 低 大 小, 須 與 花 相 稱。 而 色 之 淺 深 濃 淡, 又 須 與 花 相 反。
Dưỡng hoa đảm bình, kỳ thức chi cao đê đại tiểu, tu dữ hoa tương xứng. Nhi sắc chi thiển thâm nùng đạm, hựu tu dữ hoa tương phản.
60. Mưa xuân như chiếu vua ban ân huệ, mưa hè như chiếu vua xá tội, mưa thu như lời hát điếu người chết.
春 雨 如 恩 詔, 夏 雨 如 赦 書, 秋 雨 如 輓 歌。
Xuân vũ như ân chiếu, hạ vũ như xá thư, thu vũ như vãn ca.
.
Chú thích:
(1) Lưu Phần (?- 842) người đất Xương Thị, đời Đường. Năm Thái hòa thứ hai, triều đình nhà Đường mở khoa thi để tuyển chọn quan lại. Trong bài thi của mình, Lưu Phần đả kích kịch liệt hiện tượng chuyên quyền của bọn hoạn quan đương thời, tự tiện phế lập Hoàng đế, tham dự triều chính, gây hại cho thiên hạ, và yêu cầu Hoàng đế giết sạch bọn chúng. Ban giám khảo cực lưc tán thưởng bài văn của Lưu Phần nhưng lại sợ uy quyền của bọn hoạn quan, nên không dám để Lưu Phần đỗ. Việc này gây nên tiếng vang lớn lúc bấy giờ.
(2) Vì lúc này lễ thả đèn đã chấm dứt.

(3) Vì mưa tạnh thì đào nở.
(4) Tiết khí thức 6 trong 24 khí tiết theo trong âm lịch, khoảng 20 tháng 4 Dương lịch
(5) Để khỏi ảnh hưởng đến trăng.
(6) Vì tháng tám là tháng ngắm trăng tuyệt nhất.
(7) Bạch Môn là tên gọi của Nam Kinh.
(8) Tam Ngô là Tô Châu (Đông Ngô), Nhuận Châu (Trung Ngô), Hồ Châu (Tây Ngô) là những vùng có cảnh sông nước đẹp ở Trung Quốc.
(9) Tên một tỉnh ở Trung Quốc, có ngọn Lô sơn nổi tiếng nhiều cảnh thác đẹp.
(10) Tên gọi kinh đô của Trung Quốc thời xưa .
(11) Cỏ huyên còn gọi là vong ưu thảo (cỏ quên buồn). Tương truyền Thục Đế mất nước lòng sầu hận không nguôi nên hóa làm chim đổ quyên để kêu suốt đêm, nghe rất ai oán. Ý nói nên giúp người ta quên ưu phiền chứ không nên khiến người ta thêm sầu muộn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thập diện mai phục