Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012

Trương Triều - U Mộng Ảnh (phần 2)

U mộng ảnh
.
11.Trong thiên hạ có được một người tri kỷ, thì không còn ân hận gì nữa. Đâu phải chỉ có con người mới thế, mà cả vật cũng vậy. Như cúc lấy Đào Uyên Minh(1) làm tri kỷ, mai lấy Hòa Tĩnh(2) làm tri kỷ, trúc lấy Tử Do(3) làm tri kỷ, sen lấy Liêm Khê(4) làm tri kỷ, thuần lư lấy Quý Ưng(5) làm tri kỷ, chuối lấy Hoài Tố(6) làm tri kỷ, dưa lấy Thiệu Bình(7) làm tri kỷ, gà lấy Xử Tông(8) làm tri kỷ, ngỗng lấy Hữu Quân(9) làm tri kỷ, đào lấy những người trốn vua Tần(10) làm tri kỷ, hạnh lấy Đổng Phụng(11) làm tri kỷ, đá lấy Mễ Điên(12) làm tri kỷ, quả vải lấy Thái Chân(13) làm tri kỷ, trà lấy Lư Đồng(14), Lục Vũ(15) làm tri kỷ, cỏ thơm lấy Linh Quân(16) làm tri kỷ, trống lấy Nễ Hành(17) làm tri kỷ, tỳ bà lấy Minh Phi(18) làm tri kỷ, … Một khi đã gắn bó thì ngàn thu không đổi. Còn thông đối với Tần Thủy Hoàng(19), hạc đối với Vệ Ý Công(20) thì đúng là không có duyên vậy.
天 下 有 一 人 知 己, 可 以 不 恨。不 獨 人 也, 物 亦 有 之。如 菊 以 淵 明 為 知 己; 梅 以 和 靖 為 知 己; 竹 以 子 猷 為 知 己; 蓮 以 濂 溪 為 知 己; 桃 以 避 秦 人 為 知 己; 杏 以 董 奉 為 知 己; 石 以 米 顛 為 知 己; 荔 枝 以 太 真 為 知 己; 茶 以 盧 仝, 陸 羽 為 知 己; 香 草 以 靈 均 為 知 己; 莼 鱸 以 季 鷹 為 知 己; 蕉 以 懷 素 為 知 己; 瓜 以 邵 平 為 知 己; 雞 以 處 宗 為 知 己; 鵝 以 右 軍 為 知 己; 鼓 以 祢 衡 為 知 己; 琵 琶 以 明 妃 為 知 己 ... 一 與 之 訂, 千 秋 不 移。若 松 之 於 秦 始; 鶴 之 於 衛 懿; 正 所 謂 不 可 與 作 緣 者 也。
Thiên hạ hữu nhất nhân tri kỷ, khả dĩ bất hận. Bất độc nhân dã, vật diệc hữu chi. Như cúc dĩ Uyên Minh vi tri kỷ; mai dĩ Hòa Tĩnh vi tri kỷ; trúc dĩ Tử Do vi tri kỷ; liên dĩ Liêm Khê vi tri kỷ; đào dĩ tỵ Tần nhân vi tri kỷ; hạnh dĩ Đổng Phụng vi tri kỷ; thạch dĩ Mễ Điên vi tri kỷ; lệ chi dĩ Thái Chân vi tri kỷ; trà dĩ Lô Đồng, Lục Vũ vi tri kỷ; hương thảo dĩ Linh Quân vi tri kỷ; thuần lư dĩ Quý Ưng vi tri kỷ; tiêu dĩ Hoài Tố vi tri kỷ; qua dĩ Thiệu Bình vi tri kỷ; kê dĩ Xử Tông vi tri kỷ; nga dĩ Hữu Quân vi tri kỷ; cổ dĩ Nễ Hoành vi tri kỷ; tỳ bà dĩ Minh Phi vi tri kỷ … nhất dữ chi đính, thiên thu bất di. Nhược tùng chi ư Tần Thủy; hạc chi ư Vệ Ý; chính sở vị bất khả dữ tác duyên giả dã.
12. Nói chuyện với bạn uyên bác như đọc sách lạ, nói chuyện với bạn phong nhã như đọc văn thơ của danh nhân, nói chuyện với bạn nghiêm cẩn như đọc kinh truyện của thánh hiền, nó chuyện với bạn hoạt kê như đọc tiểu thuyết truyền kỳ.
對 淵 博 友, 如 讀 異 書 ; 對 風 雅 友, 如 讀 名 人 詩 文 ; 對 謹 飭 友, 如 讀 聖 賢 經 傳 ; 對 滑 稽 友, 如 閱 傳 奇 小 說。
Đối uyên bác hữu, như độc dị thư; đối phong nhã hữu, như độc danh nhân thi văn; đối cẩn sức hữu, như độc thánh hiền kinh truyện; đối hoạt kê hữu, như duyệt truyền kỳ tiểu thuyết.
13. Khải thư nên viết như văn nhân, thảo thư nên viết như danh tướng. Hành thư ở vào khoảng giữa hai loại đó, như Dương Thúc Tử mang đai chùng, mặc áo cừu mỏng(21), chính đó là vẻ đẹp.
楷 書 須 如 文 人, 草 書 須 如 名 將, 行 書 介 乎 二 者 之 間。 如 羊 叔 子 緩 帶 輕 裘, 正 是 佳 處。
Khải thư tu như văn nhân; thảo thư tu như danh tương. Hành thư giới hồ nhị giả chi gian, như Dương Thúc Tử hoãn đới khinh cừu, chính thị giai xứ.
14. Làm người nên cầu được vào thơ, làm vật nên cầu được vào tranh vẽ.
人 須 求 可 入 詩,物 須 求 可 入 畫。
Nhân tu cầu khả nhập thi; vật tu cầu khả nhập họa.
15. Kẻ thiếu niên nên có kiến thức của bậc lão thành, mà bậc lão thành nên có hoài bão của kẻ thiếu niên.
少 年 人 須 有 老 成 之 識 見, 老 成 人 須 有 少 年 之 襟 懷。
Thiếu niên nhân tu hữu lão thành chi thức kiến; lão thành nhân tu hữu thiếu niên chi khâm hoài.
16. Xuân là tấm lòng vốn có của tự nhiên, thu là tiết điệu khác của tự nhiên(22).
春 者 天 之 本 懷, 秋 者 天 之 別 調。
Xuân giả thiên chi bản hoài, thu giả thiên chi biệt điệu.
17. Người xưa nói: "Nếu không có trăng, hoa và mỹ nhân thì chẳng muốn sinh ra ở thế giới này". Tôi xin thêm một câu:"Nếu không bút, mực, cờ, rượu thì cũng không nên làm thân người nữa".
昔 人 云 : 「 若 無 花 月 美 人, 不 願 生 此 世 界。 」 予 益 一 語 云 : 「 若 無 翰 墨 棋 酒, 不 必 定 作 人 身。」
Tích nhân vân :"Nhược vô hoa, nguyệt, mỹ nhân, bất nguyện sinh thử thế giới". Dư ích nhất ngữ vân: "Nhược vô hàn, mặc, kỳ, tửu, bất tất định tác nhân thân".
18. Nguyện được làm cây sư trong loài cây, nguyện được làm cỏ thi trong loài cỏ, nguyện được làm chim âu trong loài chim, nguyện được làm hươu nai trong loài thú, nguyện được làm con bướm trong loài sâu, nguyện được làm cá côn trong loài cá(23).
願 在 木 而 為 樗, 願 在 草 而 為 蓍, 願 在 鳥 而 為 鷗, 願 在 獸 而 為 廌, 願 在 蟲 而 為 蝶, 願 在 魚 而 為 鯤。
Nguyện tác mộc nhi vi sư; nguyện tại thảo nhi vi thi; nguyện tại điểu nhi vi âu; nguyện tại thú nhi vi lộc; nguyện tại trùng nhi vi điệp; nguyện tại ngư nhi vi côn.
19. Hoàng Cửu Yên tiên sinh bảo :"Xưa nay làm người tất phải có lứa đôi. Từ ngàn xưa không có lứa đôi, có lẽ chỉ có Bàn Cổ chăng?". Tôi nói :"Bàn Cổ chưa hẳn là không có lứa đôi, chỉ có điều bọn chúng ta không kịp nhìn thấy đó thôi. Ai là người không có lứa đôi? Đó là người cuối cùng còn sống sót sau kỳ tận thế!".
黃 九 煙 先 生 云 : 「 古 今 人 必 有 其 偶 雙。 千 古 而 無 偶 者, 其 惟 盤 古 乎 ? 」 予 謂 : 「 盤 古 亦 未 嘗 無 偶, 但 我 輩 不 及 見 耳。 其 人 為 誰 ? 即 此 劫 盡 時 最 後 一 人 是 也。」
Hoàng Cửu Yên tiên sinh vân :"Cổ kim nhân ất hưu kỳ ngẫu song. Thiên cổ nhi vô ngẫu giả, kỳ duy Bàn Cổ hồ?". Dư vị :"Bàn Cổ diệc vị thường vô ngẫu,đán ngô bối bất cập kiến nhĩ. Kỳ nhân vi thùy? Tức thử kiếp tận thời tối hậu nhất nhân thị dã".
20. Cổ nhân cho mùa đông là ba tháng dư, tôi bảo nên cho ba tháng mùa hè là dư mới phải: sáng dậy sớm là cái dư của đêm, tối ngồi chơi là cái dư của ngày, ngủ trưa là cái dư của sự thù ứng xã giao. Thơ người xưa có nói "Ta yêu ngày hè dài", lời nói quả không sai.
古 人 以 冬 為 三 餘。 予 謂 當 以 夏 為 三 餘 : 晨 起 者, 夜 之 餘 ; 夜 坐 者, 晝 之 餘 ; 午 睡 者, 應 酬 人 事 之 餘。 古 人 詩 曰 : 「 我 愛 夏 日 長 」, 洵 不 誣 也。
Cổ nhân dĩ đông vi tam dư. Dư vị đương dĩ hạ vi tam dư : Thần khởi giả, dạ chi dư; dạ tọa giả, trú chi dư; ngọ thụy giả, ứng thù nhân sự chi dư. Cổ nhân thi vân "Ngã ái hạ nhật trường". Tuân bất vu dã.
21. Trang Chu mộng thấy mình hóa thành bướm(24), đó là cái may mắn của Trang Chu; bướm nếu mộng thấy mình hóa thành Trang Chu, thì đó là cái bất hạnh của bướm.
莊 周 夢 為 蝴 蝶, 莊 周 之 幸 也 ; 蝴 蝶 夢 為 莊 周, 蝴 蝶 之 不 幸 也。
Trang Chu mộng vi hồ điệp, Trang Chu chi hạnh dã; hồ điệp mộng vi Trang Chu, hồ điệp chi bất hạnh dã.
22. Gầy hoa để gọi bướm, chất đá để mời mây, trồng thông để đón gió, chứa nước để mời bèo; xây đài cao để đón trăng, trồng chuối để đón mưa, trồng liễu để gọi ve.
藝 花 可 以 邀 蝶, 纍 石 可 以 邀 雲, 栽 松 可 以 邀 風, 貯 水 可 以 邀 萍, 築 臺 可 以 邀 月, 種 蕉 可 以 邀 雨, 植 柳 可 以 邀 蟬。
Nghệ hoa khả dĩ khiêu điệp; lũy thạch khả dĩ khiêu vân; tài tùng khả dĩ khiêu phong; trữ thủy khả dĩ khiêu bình; trúc đài khả dĩ khiêu nguyệt; chủng tiêu khả dĩ khiêu vũ; trí liễu khả dĩ khiêu thiền.
23. Có cảnh nói ra thì cực kỳ u tĩnh, nhưng thực ra rất tiêu điều, đó là cảnh khói mưa; có cảnh nói ra thì cực kỳ thanh nhã, nhưng thực ra rất khó chịu, đó là cảnh ốm đau bệnh tật; có cảnh nói ra thì cực kỳ phong vận, nhưng thực ra rất thô bỉ, đó là tiếng rao bán hoa.
景 有 言 之 極 幽, 而 實 蕭 索 者, 煙 雨 也 ; 境 有 言 之 極 雅, 而 實 難 堪 者, 貧 病 也 ; 聲 有 言 之 極 韻, 而 實 粗 鄙 者, 賣 花 聲 也。
Cảnh hữu ngôn chi cực u, nhi thực tiêu sái giả, yên vũ dã; cảnh hữu ngôn chi cực nhã, nhi thực nan kham giả, bần bệnh dã; thanh hữu ngôn chi cực vận, nhi thực thô bỉ giả, mại hoa thanh dã.
24. Tài tử mà được phú quý, nhất định phải do phúc huệ song tu mới có được.
才 子 而 富 貴,定 從 福 慧 雙 修 得 來。
Tài tử nhi phú quý, định tòng phúc huệ song tu đắc lai.
25. Trăng non hận về nỗi mau lặn mà trăng khuyết lại hận về nỗi lâu lên.
新 月 恨 其 易 沈, 缺 月 恨 其 遲 上。
Tân nguyệt hận kỳ dị trầm, khuyết nguyệt hận kỳ trì thượng.
26. Cày cấy ta không làm được, thôi thì học tưới vườn cho xong; đốn củi ta không làm được, thôi thì học làm cỏ cho xong.
躬 耕, 吾 所 不 能, 學 灌 園 而 已 矣 ; 樵 薪, 吾 所 不 能, 學 薙 草 而 已 矣。
Cung canh ngô sở bất năng, học quán viên nhi dĩ hỹ; tiều tân ngô sở bất năng, học thế thảo nhi dĩ hỹ.
27. Một là hận sách dễ bị mối mọt, hai là hận đêm hè có muỗi, ba là hận đài ngắm trăng dễ bị thấm nước, bốn là hận lá cúc hay héo, năm là hận thông có nhiều kiến lớn, sáu là hận trúc hay rụng lá, bảy là hận quế và sen dễ tàn, tám là hận trong cỏ tiết thường có rắn, chín là hận hoa trên mắt cáo có gai, mười là hận cá nóc có độc.
一 恨 書 囊 易 蛀, 二 恨 夏 夜 有 蚊, 三 恨 月 臺 易 漏, 四 恨 菊 葉 多 焦, 五 恨 松 多 大 蟻, 六 恨 竹 多 落 葉, 七 恨 桂 、 荷 易 謝, 八 恨 薜、 蘿 藏 虺, 九 恨 架 花 生 刺, 十 恨 河 豚 多 毒。
Nhất hận thư nang dị chú; nhị hận hạ dạ hữu văn; tam hận nguyệt đài dị lậu; tứ hận cúc diệp đa tiêu; ngũ hận tùng đa đại nghĩ; lục hận trúc đa lạc diệp; thất hận quế hạ dị tạ; bát hận tiết la tàng xà; cửu hận giá hoa sinh thích; thập hận hà đồn hữu độc.
28. Đứng trên lầu ngắm núi, đứng đầu thành ngắm tuyết, ngồi trước đèn ngắm hoa, ngồi trong thuyền ngắm ráng chiều, dưới trăng ngắm mỹ nhân, mỗi cảnh đều có tình riêng.
樓 上 看 山, 城 頭 看 雪, 燈 前 看 月, 舟 中 看 霞, 月 下 看 美 人, 另 是 一 番 情 境。
Lâu thượng khán sơn, thành đầu khán tuyết, đăng tiền khán hoa, chu trung khán hà, nguyệt hạ khán mỹ nhân, lánh thị nhất phiên tình cảnh.
29. Ánh nắng của núi, tiếng chảy của nước, màu sắc của trăng, hương thơm của hoa, vẻ nho nhã của văn nhân, dáng yêu kiều của mỹ nhân đều là những thứ không thể dùng tên gọi mà hình dung ra được, không thể nào nắm bắt được, quả đủ để làm ngơ ngẩn mộng hồn, đảo điên thần tứ!
山 之 光, 水 之 聲, 月 之 色, 花 之 香, 文 人 之 韻 致, 美 人 之 姿 態, 皆 無 可 名 狀, 無 可 執 著。 真 足 以 攝 召 魂 夢, 顛 倒 情 思。
Sơn chi quang, thủy chi thanh, nguyệt chi sắc, hoa chi hương, văn nhân chi vận trí, mỹ nhân chi tư thái, giai vô khả danh trạng, vô khả chấp trước. Chân túc dĩ nhiếp chiêu hồn mộng, điên đảo tình tứ!
30. Giá như có thể làm chủ được giấc mộng thì dù chốn xa ngàn dặm cũng có thể đến không khó khăn gì, mà không cần đến gậy rút đất của Trường Phòng(25); có thể gặp gỡ người đã khuất, mà không cần đến thuật chiêu hồn của Thiếu Quân(26); có thể rong chơi Ngũ nhạc mà không cần chờ đến khi chuyện gia đình ổn định.
假 使 夢 能 自 主, 雖 千 里 無 難 命 駕, 可 不 羨 長 房 之 縮 地 ; 死 者 可 以 晤 對, 可 不 需 少 君 之 招 魂 ; 五 嶽 可 以 臥 遊, 可 不 俟 婚 嫁 之 盡 畢。
Giả sử mộng năng tự chủ, tuy thiên lý vô nan mệnh giá, khả bất tiển Trường Phòng chi súc địa; tử giả khả dĩ ngộ đối, khả bất nhu Thiếu Quân chi chiêu hồn; ngũ nhạc khả dĩ ngọa du, khả bất sĩ hôn giá chi tận tất.

Chú thích:
(1) Đào Tiềm, hiệu Uyên Minh, nhà thơ lớn đời Đông Tấn, trả áo từ quan về vui cảnh điền viên. Có làm bài "Quy khứ lai từ" rất nổi tiếng. Ông sống thanh cao, và rất yêu hoa cúc, làm nhiều bài thơ về hoa cúc. Trong hai mươi bài thơ "Ẩm tửu" có câu "Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam sơn". 採 菊 東 籬 下,悠 然 見 南 山 (hái cúc bờ rào phía đông, xa xa thấy núi Nam)
(2) Tức Lâm Bô, nhà thơ đời Bắc Tống, được gọi là "Tây Hồ ẩn sĩ". Ống một mình ở Tây Hồ, nuôi hạc trồng mai, và thường bảo lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con.
(3) Tức Vương Huy Chi, con trai nhà thư pháp Vương Hy Chi, tự Tử Do, người đời Đông Tấn. Theo Thế thuyết tân ngữ, Vương Huy Chi có lần đến ở trọ nhà người, bảo trồng trúc. Có người hỏi : “Ở tạm, vậy có phiền gì chăng?”. Vương chỉ cây trúc, bảo: “Hà khả nhất nhật vô thử quân? 何 可 一 日 無 此 君!(Làm sao có thể một ngày thiếu người này được?).
(4) Tức Chu Đôn Di, nhà lý học đời Nam Tống, yêu hoa sen, có bài "Ái liên thuyết" nổi tiếng ở đời.
(5) Trương Hàn, tự Quý Ưng, đời Tấn làm quan ở Lạc Dương, nghe gió thu nổi lên, bỗng nhớ món canh rau rút cá rô (thuần lư) ở quê nhà, bèn từ quan về quê; về sau từ "thuần lư" được dùng để chỉ lòng nhớ quê.
(6) Tăng nhân đời Đường, đệ tử của Huyền Trang. Tục tính là Tiền, tự Tàng Chân. Tương truyền ông trồng hàng vạn gốc chuối, dùng lá chuối để viết thay cho giấy.
(7) Thiệu Bình, làm đến tước Đông Lăng hầu đời Tần. Nhà Tần mất, nhà lâm vào cảnh nghèo túng, phải trồng dưa ở phía đông thành Trường An để bán. Dưa lớn trái thơm ngon, người đời gọi là Đông Lăng qua (dưa của Đông Lăng hầu).
(8) Theo Văn nghệ loại tụ thì Tống Xử Tông là Thứ sử đời Tấn, có lần mua được một con gà trống có tiếng gáy rất dài, thương yêu rất mực. Con gà học được tiếng người thường cùng Tông nói chuyện suốt ngày, tỏ ra rất thông minh. Xử Tông nhờ đấy mà ăn nói giỏi giang thêm.
(9) Hữu Quân tức Vương Hy Chi, nhà thư pháp lỗi lạc của Trung Quốc, chữ của ông rất quý. Tính ông rất thích ngỗng, có lần viết hai chương trong cuốn "Đạo đức kinh" để đem chữ đổi lấy một bầy ngỗng.
(10) Theo Đào hoa viên ký của Đào Tiềm có người nhặt cánh hoa đào trên suối, bèn lần theo con suối đi ngược về nguồn thì gặp một ngôi làng trồng toàn đào sống thanh bình như cảnh thần tiên. Hỏi ra mới biết tổ tiên họ là những người trốn chính sách tàn bạo của Tần Thủy Hoàng mà lánh đến đây sống.
(11) Danh y thời Tam Quốc, tự Quân Dị. Mõi khi chữa bệnh cho người, không lấy thù lao mà chỉ yêu cầu trồng hạnh. được hơn mười vạn gốc hạnh. Khi hạnh ra trái, ông đem đổi gạo để giúp người nghèo.
(12) Mễ Phí đời Nam Tống, yêu đá đến độ si cuồng, có lần khăn áo chỉnh tề ra lạy viên đá gọi là "ông nhạc" nên bị đời gọi là Mễ Điên.
(13) Dương Quý Phi, rất thích ăn trái vải (lệ chi) của đất Bắc Việt Nam. Đến mùa vải. Đường Minh Hoàng phải cho ngựa trạm mang vải từ miền Bắc Việt Nam đến kinh đô Trường An cho Dương Quý Phi.
(14) Lô Đồng, nhà thơ đời Đường, hiệu Ngọc Xuyên Tử, rất mê trà, có bài thơ Trà Ca.
(15) Lục Vũ, tác gia đời Đường có cuốn Trà Kinh, được xem là cuốn sách kinh điển về trà.
(16) Khuất Nguyên, nhà thơ lớn đời Chiến Quốc, có tập Sở Từ nổi tiếng. Trong thơ, ông nói đến cỏ thơm để ví với lòng trung của người quân tử.
(17) Cuồng sĩ đời Hậu Hán, được tiến cử lên vua Hán Hiến đế. Tào Tháo, lúc đó là Thừa tướng, sai người triệu Nễ Hành tới. Hành rất hận Tào Tháo lấn át quyền vua nên lúc đối đáp, Nễ Hành chê bai tất cả các văn quan võ tướng của Tào Tháo. Tháo muốn làm nhục, cho Hành làm chức Cổ lại để sớm tối đánh trống hầu những buổi thiết triều hạ. Hành không từ chối. Hôm sau, Tào Tháo mở yến tiệc để thết tân khách, rồi sai Nễ Hành ra đánh trống. Tên đánh trống cũ bảo Hành phải mặc áo mới. Hành không thèm nghe, cứ mặc áo cũ mà vào, xắn tay đánh ba hồi trống , âm tiết tuyệt diệu, nghe văng vẳng như có tiếng đá, tiếng vàng ngân theo ai oán. Cử tọa ngồi nghe đều bùi ngùi sa lệ.
(18) Chiêu Quân, cung phi đời Hán Nguyên Đế (49-33 BC), một trong tứ đại mỹ nhân Trung Quốc. Bị triều đình nhà Hán đem cống cho vua Hung Nô để cầu hòa, Chiêu Quân mang theo cây tỳ bà về phương Bắc để dùng tiếng đàn thổ lộ hết nỗi niềm sầu hận. Sự tích "Chiêu Quân cống hồ" với hình ảnh người con gái dung nhan tuyệt đại mặc áo choàng đỏ, ôm cây tỳ bà cưỡi con ngụa trắng giữa vùng thảo dã mênh mông đã là đề tài cho thi nhân Trung Quốc rất nhiều thế hệ.
(19) Tức Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên tiêu diệt các nước chư hầu để thống nhất Trung Quốc. Thủy Hoàng có lần lên núi Thái sơn nghỉ dưới gốc thông, bèn phong cho cây thông chức Ngũ đại phu. Sau nhà Tần bị Hạng Vũ diệt.
(20) Vua nước Vệ thời Xuân Thu Chiến Quốc, rất mê hạc. Mỗi khi Vệ Ý Công đi chơi đâu trên các cỗ xe loan, chim hạc đậu bao quanh, gọi là Hạc tướng quân. Vì thế mà bị rợ Địch phương Bắc cướp nước.
(21) Tên là Hựu, tự Thúc Tử (211-278), danh thần đời Tây Tấn. Cuối đời Tam Quốc, sau khi Tư Mã Viêm diệt được nhà Ngụy, cùng Dương Thúc Tử bàn kế hoạch diệt Ngô. Ông ra trấn nhiệm thành Tương Dương, làm đô đốc Kinh Châu, khai khẩn đồn điền, tích trữ lương thảo, chuẩn bị kế hoạch diệt Ngô. Nhưng ngày thường ông vẫn mang đai chùng ặc áo cừu mỏng, không mặc áo giáp, cùng tướng Ngô là Lục Kháng cho sứ cầm cờ tiết đi lại, nhằm để thu phục nhân tâm người nước Ngô vùng Giang Hán
(22) Mùa xuân sinh cơ thịnh vượng, khí tượng mới mẻ, đó là nét đặc sắc của tự nhiên. Mùa thu khắp chốn quạnh hiu, trời cao mây nhạt, là tiết điệu khác của tự nhiên.
(23) Cây sư tức cây thung, tuy to lớn nhưng gỗ không dùng được vào việc gì nên không bị đốn chặt, cũng như người nhờ bất tài mà hưởng trọn được tuổi trời; cỏ thi là loại cỏ dùng để bói toán thời cổ đại, để tiên đoán sự việc; chim âu vốn ung dung tự tại; hươu nai là loại thú tương truyền biết phân biệt được thị phi; bướm là loại côn trùng thanh khiết xinh đẹp, được Trương Triều xem là hóa thân của tài tử; côn là loài cá, cùng với chim bằng, được Trang Tử dùng làm hình tượng tiêu dao trong Nam hoa kinh.
(24) Thiên Tề vật luận (luận về sự bình đẳng của vạn vật) trong Nam hoa kinh chép rằng Trang Chu (Trang Tử) nằm mơ thấy mình hóa thành bướm, lúc tỉnh dậy không biết là mình hóa ra bướm hay bướm hóa ra mình.
(25) Phí Trường Phòng, tên một vị phương sĩ đời Đông Hán có thuật rút đất.
(26) Lý Thiếu Quân, tên một vị phương sĩ có thuật gọi hồn người chết.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thập diện mai phục