Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012

Trương Triều - U Mộng Ảnh (phần 5)

U mộng ảnh

.

101. Văn chương là gấm vóc có lời, gấm vóc là văn chương không lời, cả hai đều cùng phát xuất từ một nguồn. Đại khái mà bàn luận thì các nơi như Kim Lăng, Vũ Lâm, Cô Tô, nơi nào có sách thì nơi đó có khung cửi dệt.

文 章 是 有 字 句 之 錦 繡, 錦 繡 是 無 字 句 之 文 章, 兩 者 同 出 于 一 原。 姑 即 粗 跡 論 之, 如 金 陵, 如 武 林, 如 姑 蘇, 書 林 之 所 在, 即 機 杼 之 所 在 也。

Văn chương thị hữu tự cú chi cẩm tú, cẩm tú thị vô tự cú chi văn chương, lượng giả đồng xuất vu nhất nguyên. Cô tức thô tích luận chi, như kim lăng, như võ lâm, như cô tô, thư lâm chi sở tại, tức ky trữ chi sở tại dã.

102. Tôi thường gồm các tự thiếp để làm thơ. Chữ không phức tạp mà nhiều thì không gì qua ”Thiên tự văn”, nhưng những chữ mà các nhà thơ thường dùng trước mắt, khổ ở chỗ chưa hoàn bị. Các chữ chỉ về thiên văn như: yên (khói), hà (ráng), phong (gió), tuyết (tuyết); các chữ chỉ về địa lý như: giang (sông), sơn (núi), đường (ao), ngạn (bờ); các chữ chỉ về thời tiết như: xuân (mùa xuân) , tiêu (nửa đêm), hiểu (sáng sớm), mộ (chiều tối); các chữ chỉ về nhân vật như: ông (ông già), tăng (thầy tu), ngư (người đánh cá), tiều (người đốn củi); các chữ chỉ về cây cỏ như: hoa (hoa), liễu (cây liễu), đài (rêu), bình (bèo); các chữ chỉ về chim chóc và côn trùng như: phong (ong), điệp (bướm), oanh (chim oanh), yến (chim én); các chữ chỉ về nhà cửa như: đài (nền cao), lan (lan can), hiên (mái hiên), song (cửa sổ); các chữ chỉ về vật dụng như: chu (ghe nhỏ), thuyền (ghe lớn), hồ (cái bình), trượng (gậy chống); các chữ chỉ về nhân sự như: mộng (giấc mộng), ý (ý nghĩ), sầu (buồn), hận (giận, hận); các chữ chỉ về quần áo như: quần (quần), tụ (tay áo), cẩm (gấm), ỷ (lụa); các chữ chỉ về ăn uống như: trà (trà), tương (nước tương), ẩm (uống), chước (rót rượu); các chữ chỉ về thân thể như: mấn (tóc mai), mi (lông mày), vận (phong cách), thái (dáng vẻ); cách chữ chỉ về thanh sắc như: hồng (màu hồng), lục (màu xanh), hương (mùi thơm), diễm (đẹp); các chữ chỉ về văn chương như: tao (ly tao), phú (thể phú) đề (đầu đề), ngâm (ngâm nga); các chữ chỉ về số mục như: nhất (một), tam (ba) song (cặp), bán (một nửa) thì Thiên tự văn đều không có. Thiên tự văn còn thế, huống gì sách khác?

予 嘗 集 諸 法 帖 字 為 詩。 字 之 不 複 而 多 者, 莫 善 于 《 千 字 文 》, 然 詩 家 目 前 常 用 之 字, 猶 苦 其 未 備。 如 天 文 之 煙 、 霞 、 風 、 雪, 地 理 之 江 、 山 、 塘 、 岸, 時 令 之 春 、 宵 、 曉 、 暮, 人 物 之 翁 、 僧 、 漁 、 樵, 花 木 之 花 、 柳 、 苔 、 萍, 鳥 獸 之 蜂 、 蝶 、 鶯 、 燕, 宮 室 之 臺 、 欄 、 軒 、 窗, 器 用 之 舟 、 船 、 壺 、 杖, 人 事 之 夢 、 憶 、 愁 、 恨, 衣 服 之 裙 、 袖 、 錦 、 綺, 飲 食 之 茶 、 漿 、 飲 、 酌, 身 體 之 鬚 、 眉 、 韻 、 態, 聲 色 之 紅 、 綠 、 香 、 豔, 文 史 之 騷 、 賦 、 題 、 吟, 數 目 之 一 、 三 、 雙 、 半, 皆 無 其 字。 《 千 字 文 》 且 然, 況 其 他 乎 ?

Dư thường tập chư pháp thiếp tự vi thi. Tự chi bất phức nhi đa giả, mạc thiện vu ”Thiên văn tự”, nhiên thi gia mục tiền thường dụng chi tự, do khổ kỳ vị bị. Như thiên văn chi yên, hà, phong, tuyết; địa lý chi giang, sơn, đường, ngạn; thời lệnh chi xuân, tiêu, hiểu, mộ; nhân vật chi ông, tăng, ngư, tiều; hoa mộc chi hoa, liễu, đài, bình; điểu thú chi phong, điệp, oanh, yên; cung thất chi đài, lan, hiên, song; khí dụng chi chu, thuyền, hồ, trượng; nhân sự chi mộng, ức, sầu, hận; y phục chi quần, tụ, cẩm, ỷ; ẩm thực chi trà, tương, ấm, chước; thân thể chi tu, mi, vận, thái; thanh sắc chi hồng, lục, hương, diễm; văn sử chi tao, phú, đề, ngâm; số mục chi nhất, tam, song, bán, giai vô kỳ tự. Thiên văn tự thả nhiên, huống kỳ tha hồ?

103. Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, người đẹp không nên thấy chết yểu.

花 不 可 見 其 落, 月 不 可 見 其 沈, 美 人 不 可 見 其 夭。

Hoa bất khả kiến kỳ lạc, nguyệt bất khả kiến kỳ thẩm, mỹ nhân bất khả kiến kỳ yểu.

104. Trồng hoa nên thấy khi hoa nở, đón trăng nên thấy lúc trăng tròn, viết sách nên thấy lúc hoàn thành, người đẹp nên thấy được vui vẻ, sung sướng, nếu không thì chỉ uổng công.

種 花 須 見 其 開, 待 月 須 見 其 滿, 著 書 須 見 其 成, 美 人 須 見 其 暢 適, 方 有 實 際。 否 則 皆 為 虛 設。

Chủng hoa tu kiến kỳ khai, đãi nguyệt tu kiến kỳ mãn, trước thư tu kiến kỳ thành, mỹ nhân tu kiến kỳ sướng đích, phương hữu thực tế. Phủ tắc giai vi hư thiết.

105. Huệ Thi(1) viết nhiều, sách ông chứa đến năm xe; Ngu Khanh(2) vì cảnh cùng sầu mà viết sách, sách của cả hai ông đều không truyền đến ngày nay. Không biết trong sách nói gì? Tôi không gặp được người xưa, làm sao mà không hận?

惠 施 多 方, 其 書 五 車 ; 虞 卿 以 窮 愁 著 書, 今 皆 不 傳。 不 知 書 中 果 作 何 語 ?我 不 見 古人,安 得 不 恨 ?

Huê Thi đa phương, kỳ thư ngũ xa, Ngu Khanh dĩ cùng sầu trứ thư, kim giai bất truyền. Bất tri thư trung quả tác hà ngữ? Ngã bất kiến cổ nhân, an đắc bất hận ?

106. Lấy hoa thông làm lương thực, lấy trái thông làm hương liệu, lấy cành thông làm chổi quét, lấy sóng lao xao trên ngọn thông làm tiếng trống. Ở trong núi mà có được hơn trăm cây thông lớn, thật là có thể dùng mãi không hết.

以 松 花 為 量, 以 松 實 為 香, 以 松 枝 為 麈 尾, 以 松 陰 為 步 障, 以 松 濤 為 鼓 吹。 山 居 得 喬 松 百 餘 章, 真 乃 受 用 不 盡。

Dĩ tùng hoa vi lương, dĩ tùng thực vi hương, dĩ tùng chi vi chủ vĩ, dĩ tùng âm vi bộ chướng, dĩ tùng đào vi cổ xúy. Sơn cư đắc kiều tùng bách dư chương, chân nãi thụ dụng bất tận.

107. Phép ngắm trăng : trắng tỏ nên ngẩng mà ngắm, trăng mờ nên cúi mà nhìn.

玩 月 之 法,皎 潔 則 仰 觀,朦 朧 則 宜 俯 視。

Ngoạn nguyệt chi pháp : hạo khiết tắc nghi ngưỡng quán, mông lung tắc nghi phủ thị.

108. Trẻ thơ chẳng biết một điều gì, mắt không phân biệt được vẻ đẹp xấu, tai không phân biệt được tiếng đục trong, mũi chưa phân biệt được mùi thơm thối; nhưng nếu vị đắng hay ngọt thì không những biết ngay mà biết chọn hay bỏ nữa. Cho nên dùng đồ ngon ngọt để dỗ con thì mặt mày hớn hở, hầu như chỉ do vậy mà thôi.

孩 提 之 童, 一 無 所 知。 目 不 能 辨 美 惡, 耳 不 能 判 清 濁, 鼻 不 能 別 香 臭。 至 若 味 之 甘 苦, 則 不 第 知 之, 且 能 取 之 棄 之。 告 子 以 甘 食 、 悅 色 為 性,殆 指 此 類 耳。

Hài đề chi đồng, nhất vô sở tri. Mục bất năng biện mỹ ố, nhĩ bất năng phán thanh trọc, tỵ bất năng biệt hương xú. Chí nhược vị chi cam khổ, tắc bất đệ tri chi, thả năng thủ chi khí chi. Cáo tử dĩ cam thực, duyệt sắc vi tính, đãi chỉ thử loại nhĩ.

109. Phàm việc không nên khắt khe, nhưng đọc sách thì không thể không khắc khe; việc không nên tham, nhưng mua sách không thể không tham; việc không nên đam mê, nhưng làm việc thiện không thể không đam mê.

凡 事 不 宜 刻, 若 讀 書 則 不 可 不 刻 ; 凡 事 不 貪, 若 買 書 則 不 可 不 貪 ; 凡 事 不 宜, 若 行 則 可 不 癡。

Phàm sự bất nghi khắc, nhược độc thư tắc bất khả bất khắc, phàm sự bất nghi tham, nhược mãi thư tắc bất khả bất tham, phàm sự bất nghi si, nhược hành thiện tắc bất khả bất si.

110. Rượu cũng tốt, nhưng chớ để vì say sưa mà gây gỗ; sắc cũng tốt, nhưng chớ để vì si mê mà làm tổn hại đến đời sống; tiền cũng tốt, nhưng chớ để vì tham lam làm mờ tối lương tâm; nóng giận cũng được nhưng chớ để vì không kìm chế mà vượt qua chữ lý.

酒 可 好, 不 可 罵 座 ; 色 可 好, 不 可 傷 生 ; 財 可 好, 不 可 昧 心 ; 氣 可 好, 不 可 越 理。

Tửu khả hảo, bất khả mạ tọa; sắc khả hảo; bất khả thương sinh; tài khả hảo bất khả muội tâm; khí khả hảo; bất khả việt lý.

111. Tên tuổi văn chương có thể sánh với việc thi đậu; tiết kiệm có thể sánh với tài sản; thanh nhàn có thể sánh với tuổi thọ.

文 名, 可 以 當 科 第 ; 儉 德, 可 以 當 貨 財 ; 清 閒,可 以 當 壽 考。

Văn danh khả dĩ đương khoa đệ, kiệm đức khả dĩ đương hóa tài, thanh nhàn khả dĩ đương thọ khảo.

112. Không chỉ ngâm thơ mà còn đọc sách người xưa là làm bạn với cổ nhân, còn xem chữ viết và tranh vẽ của người xưa là đến được nơi họ ở.

不 獨 誦 其 詩 讀 其 書, 是 尚 友 古 人 ; 即 觀 字, 亦 是 尚 友 古 人 處。

Bất độc tụng kỳ thi, độc kỳ thư, thị thượng hữu cổ nhân; tức quán kỳ tự họa, diệc thị thượng hữu cổ nhân xứ.

113. Bố thí vô ích, không gì bằng cúng thầy tu; thơ văn vô ích, không gì bằng lời chúc thọ.

無 益 之 施 捨, 莫 過 于 齋 僧 ; 無 益 之 詩 文, 甚 于 祝 壽。

Vô ích chi thí xả mạc quá ư trai tăng, vô ích chi thi văn mạc quá ư chúc thọ.

114. Vợ lẽ đẹp không bằng vợ chính hiền, tiền nhiều không bằng cảnh thuận.

妾 美 不 如 妻 賢 ; 錢 多 不 如 境 順。

Thiếp mỹ bất như thê hiền, tiền đa bất như cảnh thuận.

115. Xây am mới, không bằng tu sửa miếu cũ; đọc sách mới, không bằng ôn văn xưa.

創 新 庵, 不 若 修 古 廟 ; 讀 生 書,不 溫 業。

Sáng tân am bất nhược tu cổ miếu; độc sinh thư bất nhược ôn cựu nghiệp.

116. Chữ viết và hội họa cùng chung một nguồn gốc, cứ xem lục thư xuất phát từ chữ tượng hình thì đủ biết.

字 與 畫 同 出 一 源, 觀 六 書 始 於 象 形, 則 可 知 矣。

Tự dữ họa đồng xuất nhất nguyên. Quán lục thư thủy ư tượng hình, tắc khả tri dĩ.

117. Vườn của người bận rộn, nên bố trí gần nhà; vườn của người nhàn nhã, có xa cũng chẳng hề gì.

忙 人 園 亭, 宜 與 住 宅 相 連 ; 閒 人 園 亭, 不 妨 與 住 宅 相 遠。

Mang nhân viên đình, nghi dữ trú trạch tướng liên, nhàn nhân viên đình, bất phương dữ trú trạch tương viễn.

118. Rượu có thể thay trà, trà không thể thay rượu; thơ có thể thay văn, văn không thể thay thơ; khúc có thể thay từ, từ không thể thay khúc; trăng có thể thay đèn, đèn không thể thay trăng; bút có thể thay miệng, miệng không thể thay bút; tỳ thiếp có thể thay người hầu, người hầu không thể thay tỳ thiếp.

酒 可 以 當 茶, 茶 不 可 以 當 酒; 詩 可 以 當 文, 文 不 可 以 當 詩; 曲 可 以 當 詞, 詞 不 可 以 當 曲; 月 可 以 當 燈, 燈 不 可 以 當 月; 筆 可 以 當 口, 口 不 可 以 當 筆; 婢 可 以 當 奴,奴 不 可 以 當 婢。

Tửu khả dĩ đương trà, trà bất khả dĩ đương tửu; thi khả dĩ đương văn, văn bất khả dĩ đương thi; khúc khả dĩ đương từ, từ bất khả dĩ đương khúc; nguyệt khả dĩ đương đăng, đăng bất khả dĩ đương nguyệt; bút khả dĩ đương khẩu, khẩu bất khả dĩ đương bút; tỳ khả dĩ đương nô, nô bất khả dĩ đương tỳ.

119. Mối bất bình nhỏ trong lòng, có thể dùng rượu để nguôi đi; mối bất bình lớn trong đời, không dùng kiếm không sao nguôi được.

胸 中 小 不 平, 可 以 酒 消 之 ; 世 間 大 不 平, 非 劍 不 能 消 也。

Hung trung tiểu bất bình, khả dĩ tửu tiêu chi; thế gián đại bất bình, phi kiếm bất năng tiêu dã.

120. Bất đắc dĩ mà phải nịnh thì thà dùng miệng, không nên dùng bút; bất đắc dĩ mà phải mắng cũng thà dùng miệng, không nên dùng bút.

不 得 以 而 諛 之 者, 寧 以 口, 毋 以 筆 ; 不 可 耐 而 罵 之 者, 亦 寧 以 口,毋 以 筆。

Bất đắc dĩ nhi du chi giả, ninh dĩ khẩu, vô dĩ bút; bất khả nại nhi mạ chi giả, diệc ninh dĩ khẩu, vô dĩ bút.

121. Kẻ đa tình tất mê sắc, nhưng kẻ mê sắc chưa hẳn đã đa tình; hồng nhan ắt bạc mệnh, nhưng kẻ bạc mệnh chưa hẳn đã là khách hồng nhan; kẻ biết làm thơ ắt thích rượu, nhưng kẻ thích rượu chưa hẳn đã biết làm thơ.

多 情 者 必 好 色, 而 好 色 者 未 必 盡 屬 多 情 ; 紅 顏 者 必 薄 命, 而 薄 命 者 未 必 盡 屬 紅 顏 ; 能 詩 者 必 好 酒, 而 好 酒 者 未 必 盡 屬 能 詩。

Đa tình giả tất háo sắc, nhi háo sắc giả vị tất tận thuộc đa tình, hồng nhan giả tất bạc mệnh, nhi bạc mệnh giả vị tất tận thuộc hồng nhan; năng thi giả tất háo tửu, nhi háo tửu giả vị tất tận thuộc năng thi.

122. Mai khiến người cao nhã, lan khiến người trầm mặc, cúc khiến người bình dã, sen khiến người điềm đạm, xuân hải đường khiến người xinh đẹp, mẫu đơn khiến người hào sảng, chuối và trúc khiến người phong vận, thu hải đường khiến người kiều mỵ, thông khiến người phóng dật, ngô đồng khiến người thanh cao, liễu khiến người sầu cảm.

梅 令 人 高, 蘭 令 人 幽, 菊 令 人 野, 蓮 令 人 淡, 春 海 棠 令 人 艷, 牡 丹 令 人 豪, 蕉 與 竹 令 人 韻, 秋 海 棠 令 人 媚, 松 令 人 逸, 桐 令 人 清, 柳 令 人 感。

Mai linh nhân cao, lan linh nhân u, cúc linh nhân dã, liên linh nhân đạm, xuân hải đường linh nhân diễm, mẫu đan linh nhân hào, tiêu dữ trúc linh nhân vận, thu hải đường linh nhân mị, tùng linh nhân dật, đồng linh nhân thanh, liễu linh nhân cảm.

123. Vật có thể làm cảm động lòng người, thì trên trời không có gì bằng ánh trăng, trong âm nhạc không có gì bằng đàn cầm, trong động vật không có gì bằng chim quyên, trong thực vật không có gì bằng cây liễu.

物 之 能 感 人 者 : 在 天 莫 如 月, 在 樂 莫 如 琴, 在 動 物 莫 如 鵑, 在 植 物 莫 如 柳。

Vật chi năng cảm nhân giả, tại thiên mạc như nguyệt, tại lạc mạc như cầm, tại động vật mạc như điểu, tại thực vật mạc như liễu.

124. Vợ con làm lụy đến người, nên chuộng cảnh”mai thê hạc tử” của Hòa Tĩnh(3); nô tỳ cũng làm được việc, nên thích cảnh”tiều tỳ ngư nô” của Chí Hòa(4).

妻 子 頗 足 累 人, 羨 和 靖 梅 妻 鶴 子 ; 奴 婢 亦 能 供 職, 喜 志 和 樵 婢 漁 奴。

Thê tử phạ túc lụy nhân, tiển Hòa Tĩnh mai thê hạc tử; nô tỳ diệc năng cung chức, hỷ Chí Hòa tiều tỳ ngư nô.

125. Xem lướt sách vở tuy gọi là vô dụng, nhưng còn hơn là không hiểu chuyện cổ kim; thanh cao cố nhiên là tốt đẹp, nhưng không gì trì trệ hơn là chẳng hiểu thời vụ.

涉 獵 雖 曰 無 用, 猶 勝 于 不 通 古 今 ; 清 高 固 然 可 嘉, 莫 流 于 不 識 時 務。

Thiệp liệp tuy viết vô dụng, do thắng vu bất thông cổ kim; thanh cao cố nhiên khả gia, mạc lưu vu bất thức thời vụ.

126. Được gọi là mỹ nhân thì: mặt xinh như hoa, giọng như chim hót, tinh thần như trăng, dáng vẻ như liễu, xương cốt như ngọc, da trắng như băng tuyết, phong tư như nước mùa thu, trong lòng như thơ ca. Ta không còn chỗ nào chê được cả.

所 謂 美 人 者 : 以 花 為 貌, 以 鳥 為 聲, 以 月 為 神, 以 柳 為 態, 以 玉 為 骨, 以 冰 雪 為 膚, 以 秋 水 為 姿, 以 詩 詞 為 心。 吾 無 間 然 矣。

Sở vi mỹ nhân giả : dĩ hoa vi mạo, dĩ điểu vi thanh, dĩ nguyệt vi thần, dĩ liễu vi thái, dĩ ngọc vi cốt, dĩ băng tuyết vi phu, dĩ thu thủy vi tư, dĩ thi từ vi tâm. Ngô vô gián nhiên hỹ!

127. Có cái vui ẩn dật ở cảnh núi rừng mà không biết hưởng, đó là hạng đánh cá, đốn củi, hạng làm vườn và hạng thầy chùa; có cái vui với vườn tược, thê thiếp mà không biết hưởng, đó là hạng phú thương và hạng quan lớn.

有 山 林 隱 逸 之 樂, 而 不 知 享 者, 漁 樵 也, 農 圃 也, 緇 黃 也 ; 有 園 亭 姬 妾 之 樂, 而 不 能 享 、 不 善 享 者, 富 商 也, 大 僚 也。

Hữu sơn lâm ẩn dật chi lạc nhi bất tri hưởng giả, ngư tiều dã, nông phố dã, truy hoàng dã; hữu viên đình cơ thiếp chi lạc, nhi bất năng hưởng, bất thiện hưởng giả, phú thương dã, đại liêu dã.

128. Lê Cử nói :”Muốn đem hoa mai gả cho hải đường, đem cây cam làm bề tôi của anh đào, đem rau cải gả cho măng tre, có điều chúng lại chẳng sinh cùng thời.”. Tôi nói vật nào cũng có lứa đôi, phối hợp cũng phải có đạo lý, đem gán ghép vậy chưa hẳn đã tương xứng. Như mai là vật có phẩm hạnh rất thanh cao, hải đường lại là vật có tư chất cực kỳ xinh đẹp mà đỏng đảnh, dù có sinh cùng thời cũng không thể làm phu phụ, không bằng đem mai gả cho hoa lê, hải đường gả cho hạnh, đem chanh làm bề tôi phật thủ, đem lệ chi làm bề tôi anh đào, đem thu hải đường gả cho nhạn lai hồng thì cũng khá tương xứng. Còn đến như đem rau cải gả cho măng tre, nếu măng tre mà biết được ắt sẽ bị chịu cái lụy của sư tử Hà Đông.

黎 舉 云 : 「 欲 令 梅 聘 海 棠, 橙 子 臣 櫻 桃, 以 芥 嫁 筍, 但 時 不 同 耳。 」 予 謂 物 各 有 偶, 儗 必 於 倫, 今 之 嫁 娶, 殊 覺 未 當。 如 梅 之 為 物, 品 最 清 高; 棠 之 為 物, 姿 極 妖 艷。 即 使 同 時, 亦 不 可 為 夫 婦。 不 若 梅 聘 梨 花, 海 棠 嫁 杏, 櫞 臣 佛 手, 荔 枝 臣 櫻 桃, 秋 海 棠 嫁 雁 來 紅, 庶 幾 相 稱 耳。 至 若 以 芥 嫁 筍, 筍 如 有 知, 必 受 河 東 獅 子 之 累 矣。

Lê Cử vân :”Dục linh mai sính hải đường, tranh tử thần anh đào, dĩ giới giá duẩn, đãn thời bất đồng nhĩ.” Dư vị vật các hữu ngẫu, nghĩ tất ư luân, kim chi giá thú, thù giác vị đương. Như mai chi vi vật, phẩm tối thanh cao, đường chi vị vật, tư cực yêu diễm. Tức sử đồng thời, diệc bất khả vị phu phụ. Bất nhược mai sính lê hoa, hải đường giá hạnh, duyên thần Phật thủ, lệ chi thần anh đào, thu hải đường giá nhạn lai hồng, thứ kỷ tương xứng nhĩ. Chí nhược dĩ giới giá duẩn, duẩn như hữu tri, tất thụ Hà Đông sư tử chi lụy hỹ.

129. Ngũ sắc đều có khi thái quá có khi bất cập, chỉ có đen và trắng là không.

五 色 有 太 過,有 不 及,惟 黑 與 白 無 太 過。

Ngũ sắc hữu thái quá hữu bất cập, duy hắc dữ bạch vô thái quá.

130. Xem Thủy hử đến đoạn Lỗ Đạt đánh Trấn Quan Tây, Võ Tòng đánh cọp, nhân đó mà nghĩ con người ta tất phải có việc làm cực kỳ khoái ý như thế, mới không sống uổng một đời. Còn nếu không làm được việc đó, thì cũng nên viết sách tả được những điều đắc ý mới khỏi ân hận.

閱 《 水 滸 傳 》, 至 魯 達 打 鎮 關 西, 武 松 打 虎, 因 思 人 生 必 有 一 樁 極 快 意 事, 方 不 枉 在 生 一 場 ; 即 不 能 有 其 事, 亦 須 著 得 一 種 得 意 之 書, 庶 幾 無 憾 耳。

Duyệt ”Thủy hử truyện”, chí Lỗ Đạt đả Trấn Quan Tây, Võ Tòng đả hổ, nhân tư nhân sinh tất hữu nhất thung cực khoái ý sự, phương bất uổng sinh nhất trường. Tức bất năng hữu kỳ sự, diệc tu trước đắc nhất chủng đắc ý chi thư, thứ cơ vô hám nhĩ.

131. Gió xuân lâng lâng như rượu, gió hè sảng khoái như trà, gió thu mênh mang như khói, gió đông giá buốt như gừng, cải.

春 風 如 酒, 夏 風 如 茗, 秋 風 如 煙, 冬 風 如 薑 芥。

Xuân phong như tửu, hạ phong như mính, thu phong như yên, như khương giới.

132. Hoa văn xù nhám trông cực nhã, nhưng nên mảnh không nên dày; nếu dùng làm song cửa thì thực khó coi.

冰 裂 紋 極 雅, 然 宜 細, 不 宜 肥。 若 以 之 作 窗 欄, 殊 不 耐 觀 也。

Băng liệt văn cực nhã, nhiên nghi tế, bất nghi phì. Nhược dĩ chi tác song lan, thù bất nại quán dã.

133. Những chim có tiếng hót cực hay thì họa mi là nhất, kế đó là hoàng anh, rồi tới bách thiệt. Có điều hoàng anh , bách thiệt trong đời chưa có ai nuôi được trong lồng cả, cơ hồ là bạn lứa của bậc cao sĩ, chỉ có thể cho nghe hót chứ không chịu khuất phục.

鳥 聲 之 最 佳 者 : 畫 眉 第 一, 黃 鸝 、 百 舌 次 之。 然 黃 鸝 、 百 舌, 世 未 有 籠 而 畜 之 者,其 殆 高 士 之 儔,可 聞 而 不 可 屈 者 耶。

Điểu thanh chi tối giai giả, họa mi đệ nhất, hoàng ly, bá thiệt thứ chi. Nhiên hoàng ly, bá thiệt, thế vị hữu lung nhi súc chi giả, kỳ đãi cao sĩ chi trù, khả văn nhi bất khả khuất giả da.

134. Không gầy sản nghiệp, về sau ắt lụy đến người; chỉ thích giao du, về sau ắt lụy đến ta.

不 治 生 產,其 後 必 致 累 人; 專 務 交 遊,其 後 必 致 累 己。

Bất trị sinh sản, kỳ hậu tất trí lụy nhân; chuyên vụ giao du, kỳ hậu tất trí lụy kỷ.

135. Kẻ khéo đọc sách thì chẳng có gì không là sách : sơn thủy cũng là sách, hoa nguyệt cũng là sách. Kẻ khéo du ngoạn sơn thủy thì chẳng có gì không là sơn thủy : sử sách cũng là sơn thủy, thơ rượu cũng là sơn thủy, hoa nguyệt cũng là sơn thủy.

善 讀 書 者, 無 之 而 非 書 : 山 水 亦 書 也, 棋 酒 亦 書 也, 花 月 亦 書 也。 善 遊 山 水 者, 無 之 而 非 山 水 : 書 史 亦 山 水 也, 詩 酒 亦 山 水 也, 花 月 亦 山 水 也。

Thiện độc thư giả vô chi nhi phi thư : sơn thủy diệc thư dã, kỳ tửu diệc thư dã, hoa nguyệt diệc thư dã, thiện du sơn thủy giả, vô chi nhi phi sơn thủy, thư sử diệc sơn thủy dã, thi tửu diệc sơn thủy dã, hoa nguyệt diệc sơn thủy dã.

136. Vườn đẹp ở chỗ bố trí gò hang, chứ không phải ở chỗ chạm trổ chi li; đi xem cảnh vườn nhà người, thấy trên đầu tường cẩn gạch khảm ngói, không phải là không cực kỳ tinh xảo, nhưng sau khi hư hỏng thì rất khó lòng sửa lại, sao bằng cái đẹp chất phác tự nhiên?

園 亭 之 妙 在 邱 壑 布 置, 不 在 雕 繪 瑣 屑。 往 往 見 人 家 園 亭, 屋 脊 牆 頭, 雕 磚 鏤 瓦。 非 不 窮 極 工 巧, 然 未 久 即 壞, 壞 後 極 難 修 葺。 是 何 如 樸 素 之 為 佳 乎?

Viên đình chi diệu tại khâu hác bố trí, bất tại điêu hội tỏa tiết. Vãng vãng kiến nhân gia viên tử ốc tích tường đầu, điêu chuyên lũ ngõa, phi bất cùng cực công xảo, nhiên vị cửu tức hoại, hoại hậu cực nan tu tập, thị hà như phác tố chi vi giai hồ?

137. Đêm thanh ngồi cô độc, mời trăng kể lể chuyện buồn; canh khuya ngủ một mình, gọi dế tỏ niềm sầu hận.

清 宵 獨 坐,邀 月 言 愁; 良 夜 孤 眠, 呼 蛩 語 恨。

Thanh tiêu độc tọa, yêu nguyệt ngôn sầu; lương dạ cô miên, hô cung ngữ hận.

138. Tên quan mà nghe qua dư luận, thì miệng kẻ giàu có với miệng kẻ bần cùng đều không chắc đâu là thật; án xử mà đã định sẵn trong lòng, thì lời bàn hoa mỹ với lời bình thô lậu chỉ e đánh mất điều chân.

官 聲 採 於 輿 論, 豪 右 之 口 與 寒 乞 之 口, 俱 不 得 其 真; 花 案 定 於 成 心, 艷 媚 之 評 與 寢 陋 之 評,概 恐 失 其 實。

Quan thanh thái ư dư luận, hào hữu chi khẩu, dữ hàn khất chi khẩu, câu bất đắc kỳ chân; hoa án định ư thành tâm, diễm mị chi bình, dữ tẩm lậu chi bình, khái khủng thất kỳ thực.

139. Trong bụng có chứa gò hang thì thành thị chẳng khác sơn lâm; cảm hứng gởi chốn yên hà, thì Diêm Đề(5) cũng như Bồng Đảo(6).

胸 藏 邱 壑, 城 市 不 異 山 林 ; 興 寄 煙 霞,閻 浮 有 如 蓬 島。

Hung tàng khâu hác, thành thị bất dị sơn lâm; hứng ký yên hà, Diêm Phù hữu như Bồng Đảo.

140. Ngô đồng là loài có phẩm hạnh thanh cao trong thực vật, nhưng hình thù của nó khiến nhiều người kiêng kỵ; thậm chí còn nói :”Ngô đồng to bằng miệng đấu, chủ nhân ra ngoài bôn tẩu”, xem nó như vật bất tường. Chuyện bẻ cành ngô đồng phong đất cho em(7), chỉ có ngô đồng trong cung mới có thể biết, thế mà xét về mặt tồn tại lâu dài thì không có triều đại nào hơn được nhà Chu. Lời của thói tục (chê cây ngô đồng) không đủ để làm bằng cứ, cũng giống như loại cây này vậy.

梧 桐 為 植 物 中 清 品, 而 形 家 獨 忌 之, 甚 且 謂 「 梧 桐 大 如 斗, 主 人 往 外 走。 」 若 竟 視 為 不 祥 之 物 也 者。 夫 翦 桐 封 弟, 其 為 宮 中 之 桐 可 知。 而 卜 世 最 久 者, 莫 過 於 周。 俗 言 之 不 足 據, 類 如 此 夫 !

Ngô đồng vi thực vật trung thanh phẩm, nhi hình gia độc kỵ chi, thậm thư vị ”Ngô đồng đại nhưđẩu, chủnhân vãng ngoại tẩu.” Nhược cánh thị vi bất tường chi vật dã giả. Phù tiễn đồng phong đệ, kỳ vi cung trung chi đồng khả tri. Nhi bốc thế tối cửu giả, mạc quá ư Chu. Tục ngôn chi bất túc cứ, loại như thử phù!

141. Kẻ đa tình không vì sinh tử mà thay lòng; kẻ thích rượu không vì nóng lạnh mà đổi tửu lượng, người khéo đọc sách không vì bận rỗi mà sáng tác vụng về.

多 情 者, 不 以 生 死 易 心; 好 飲 者, 不 以 寒 暑 改 量; 喜 讀 書 者, 不 以 忙 閒 作 輟。

Đa tình giả bất dĩ sinh tử dịch tâm, háo ẩm giả bất dĩ hàn thử cải lượng, hỷ độc thư giả bất dĩ mang nhàn tác chuyết.

142. Nhện là nước thù địch của bướm, lừa là nước chư hầu của ngựa.

蛛 為 蝶 之 敵 國, 驢 為 馬 之 附 庸。

Thù vi điệp chi địch quốc, lư vi mã chi phụ dung.

143. Lập phẩm hạnh, nên noi người Tống mà phát huy đạo học(8); sống với đời, nên theo đời Tấn mà học cách phong lưu(9).

立 品, 須 發 乎 宋 人 之 道 學 ; 涉 世, 須 參 以 晉 代 之 風 流。

Lập phẩm, tu phát hồ Tống nhân chi đạo học, thiệp thế, tu tham dĩ Tấn đại chi phong lưu.

144. Người xưa nói cầm thú cũng biết đến nhân luân. Tôi nói đâu chỉ cầm thú, cả thảo mộc cũng vậy. Mẫu đơn là vua, thược dược là tể tướng, đó là vua tôi vậy; cây kiều ở núi Nam, cây tử(10) ở núi Bắc, đó là cha con vậy; nghe nói cây kinh(11) chia ra thì chết, để nguyên bụi thì sống, đó là anh em vậy; sen mọc cùng đài, đó là vợ chồng vậy; hoa lan cùng nhụy, đó là bè bạn vậy.

古 謂 禽 獸 亦 知 人 倫。 予 謂 匪 獨 禽 獸 也, 即 草 木 亦 復 有 之。 牡 丹 為 王, 芍 藥 為 相, 其 君 臣 也; 南 山 之 喬, 北 山 之 梓, 其 父 子 也; 荊 之 聞 分 而 枯, 聞 不 分 而 活, 其 兄 弟 也; 蓮 之 並 蒂, 其 夫 婦 也; 蘭 之 同 心, 其 朋 友 也。

Cổ vị cầm thú diệc tri nhân luân. Dữ vị phi độc cầm thú dã, tức thảo mộc diệc phục hữu chi. Mẫu đơn vi vương, thược dược vi tướng, kỳ quân thần dã; nam sơn chi kiều, bắc sơn chi tử, kỳ phụ tử dã; kinh chi văn phân nhi khô, văn bất phân nhi hoạt, kỳ huynh đệ dã; liên chi tính đế, kỳ phu phụ dã; lan chi đồng tâm, kỳ bằng hữu dã.

145. Hào kiệt khác với thánh hiền, văn nhân nhiều hơn tài tử.

豪傑易于聖賢,文人多於才子。

Hào kiệt dị vu thánh hiền, văn nhân đa ư tài tử.

146. Trâu với ngựa : một nhập thế, một ẩn dật; nai với lợn : một thần tiên, một phàm phu.

牛與馬,一仕而一隱也; 鹿與豕,一 仙 而 一凡也。

Ngưu dữ mã, nhất sĩ nhi nhất ẩn dã; lộc dữ thỉ, nhất tiên nhi nhất phàm dã.

147. Văn chương tuyệt đỉnh cổ kim đều được viết bằng máu và nước mắt.

古今至文,皆以血淚所成。

Cổ kim chí văn, giai huyết lệ sở thành.

148. Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn.

情之一字,所以維持世界; 才之一字, 所 以 粉 飾 乾 坤。

Tình chi nhất tự, sở dĩ duy trì thế giới, tài chi nhất tự, sở dĩ phấn sức kiền khôn.

149. Khổng Tử sinh ở Trần Lỗ, Trần đó là phương sống, cho nên lễ nhạc văn chương(12), đạo lý đó từ không mà thành có; Thích Ca sinh ở Tây phương, Tây là đất chết, cho nên thọ tưởng hành thức(13), lời giáo hóa từ có hóa thành không.

孔子生 於 東 魯,東 者 生 方。故 禮 樂 文章,其 道 皆 自 無 而 有。 釋 迦 生 於 西 方,西 者 死 地。 故 受 想 行 識,其 教 皆 自 有 而 無。

Khổng Tử sinh ư Đông Lỗ, đông giả sinh phương. Cố lễ nhạc văn chương, kỳ đạo giai tự vô nhi hữu. Thích Ca sinh ư Tây phương, tây giả tử địa. Cố thụ tưởng hành thức, kỳ giáo giai tự hữu nhi vô.

150. Có non xanh rồi mới có nước biếc, nước mượn sắc ở non; có rượu ngon rồi mới có thơ hay, thơ mượn thần ở rượu.

有 青 山 方 有 綠 水,水 惟 借 色 於 山; 有 美 酒 便 有 佳 詩,詩 亦 乞 靈 於 酒。

Hữu thanh sơn phương hữu lục thủy, thủy duy tá sắc ư sơn; hữu mỹ tửu tiện hữu giai thi, thi diệc khất linh ư tửu.

Chú thích:

(1) Triết gia thời Chiến Quốc, bạn với Trang Tử. Tương truyền sách ông viết chất đầy cả năm xe.

(2) Du sĩ thời Chiến Quốc, ông mang dép mo, áo tơi đến du thuyết Hiếu Thành Vương nước Triệu. Yết kiến lần thứ nhất được nhà vua cho trăm dật vàng, một đôi ngọc bạch bích. Yết kiến lần thứ hai được làm thượng khanh nước Triệu, cho nên hiệu là Ngu Khanh

(3) Tức Lâm Bô, nhà thơ đời Bắc Tống, được gọi là "Tây Hồ ẩn sĩ". Ống một mình ở Tây Hồ, nuôi hạc trồng mai, và thường bảo lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con.

(4) Tức Trương Chí Hòa, nhà thơ Trung Đường, sống tự tại trong cảnh ngư tiều, xem cảnh đốn củi và câu cá như là những con hầu tỳ thiếp của mình, ông có bài Ngư Phủ ca.

(5) Cảnh trần gian, theo nhà Phật.

(6) Nơi ở của thần tiên, theo truyền thuyết Trung Quốc

(7) Sử ký chép vua Chu Thành Vương lúc vui đùa với em là Thúc Ngu, bẻ lá ngô đồng đưa cho em nói đùa: “Phong cho ngươi đất Đường đấy”. Quan thái sử đứng hầu xin vua chọn ngày để làm lễ. Thành Vương nói “ Ta đùa đấy mà”. Quan thái sử tâu : “Làm vua không được nói đùa”. Vua bèn phong đất Đường cho em.

(8) Vào đời Tống, Trung Quốc phát triển đạo học rất mạnh, với những tên tuổi như Chu Liêm Khê. Trình Di, Trình Hạo, Lục Tượng Sơn, Chu Hy …

(9) Vào đời Tấn, phong trào sống phong lưu nhàn nhã nổi bật với các tên tuổi : Đào Uyên Minh, Trúc Lâm thất hiền ..

(10) Cây tử dùng để đóng đàn; còn tượng trưng cho con

(11) Cây gai, một loài cây thuộc họ Rubus, thường mọc thành từng bụi rải rác ở gò, đồi.

(12) Dùng thi ca văn chương để mở rộng kiến thức, hàm dưỡng tâm linh, và dùng lễ để ước thúc con người (bác văn ước lễ), đó là cách giáo hóa của Nho giáo.

(13) Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) chính là 5 yếu tố tích tụ lại mà tạo ra xác thân con người. "Sắc" là hình thể . "Thụ" là cái mình cảm nhận. "Tưởng" là tư tưởng. "Hành" là hành động, hành vi. "Thức" là tri thức, sự hiểu biết. Đây là các khái niệm cơ bản của Phật giáo..

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thập diện mai phục